Hôm nay,  

Vui thì vui gượng kẻo là…

04/01/202408:10:00(Xem: 2331)
Tạp bút

old couple

Có một lần, tôi gặp bài của một tác giả viết về nước Mỹ, rất hay rất cảm động, bà ấy nói về chồng bà và gọi ông là « y của tôi », cái cụm từ thật thân mật, y của tôi, nghe hợp thời hơn chồng tôi, anh tôi, nhà tôi… nhứt là trong trường hợp mà tôi đang muốn nói về chồng của bạn mình, thì còn tiện và hay hơn nữa. Thí dụ: Chồng của bạn Liên, tôi gọi là y Liên, chồng của bạn Dung, thì tôi gọi là y Dung, chồng của bạn Thu, thì tôi gọi là y Thu…
    Đúng là nhứt cử lưỡng tiện mà thêm thân tình, không dài dòng hay khách sáo.
    Ô hay, sao không nói hay kể chuyện bạn mình, mà lại đi kể về y của bạn, thiệt ra thì bạn cùng phái, cùng lứa, gặp nhau hoài, giống nhau quá, có gì đâu mà nói! May ra mấy ông chồng có nhiều điểm sắc nét, cá biệt hơn các bà. Đồng ý nhe. Bắt đầu là y Dung, y Dung rất hiền, vui tính, mỗi khi ăn cơm chung ở nhà Dung xong, y Dung vội đứng lên, ân cần hỏi từng người: Bạn A, café nhé? Bạn B, Chocolat sữa? Bạn E, glace hay café đá?
    Anh hỏi cho có lệ, chớ anh nhớ là mỗi đứa đều thích thứ gì rồi. Đó, y Dung rất hiếu khách và rất “serviable“. Y Dung lễ phép có lúc đến như rụt rè, y gọi các bạn của vợ là chị, ok, nhưng có lúc y xưng là em, làm tụi tôi giật mình, tụi này già quá xá hả, hay cớ sao mà y này xuống thấp rất chân phương vậy? Hình như là y có nhỏ hơn tụi tôi một tí tuổi. Không quan trọng, y thiệt thà theo phong tục Việt Nam quý hóa và phải nói là rất khiêm cung.
    Y Dung thích uống rượu, điều đó tự nhiên, ngặt cái có lúc y uống quá tay, say mèm, phải tựa vô ghế mà đứng, nhưng y không nhận là y say dù có đôi lúc y nói loăng quoăng, cũng vô thưởng vô phạt, và y còn chút tỉnh táo, để lý luận giống thi bá Vũ Hoàng Chương:
 
    Trong men cháy
    Giác quan vừa bén lửa
    Say… say không còn biết chi đời
    Nhưng em ơi,
    Đất trời nghiêng ngửa,
    Đất trời nghiêng ngửa,
    Mà thành sầu không sụp đổ đâu em!
   
Thành sầu của y Dung ở đây, y bảo không phải là sầu tình mà là sầu vong quốc! Y Dung rất vui khi được đi Việt Nam làm từ thiện hay cứu trợ y tế. Y hay tháp tùng các hội đoàn bác ái của Missions étrangères de Caritas để thông ngôn, để phát thuốc hay mổ mắt miễn phí cho đồng bào nghèo ở vùng quê vùng núi hẻo lánh, y là thành viên của giáo xứ ma mère mariculeuse. Chỉ khi đi Việt Nam làm việc công ích xã hội là y lanh lẹ, tỉnh táo hẳn lên, đúng là “một sói con sắp sẵn“ lên đường.
    Mới đây, tôi gặp y Dung, y than năm nay ở quê hương Việt Nam, vẫn đầy bão lụt hà rầm, mà không còn ai khởi xướng cứu trợ nữa, vì mấy năm qua có những người đã làm đã mang tiếng, không dám làm nữa, người chưa làm, muốn làm cũng sợ vạ lây. Nhà nước cộng sản thì mặc kệ dân, sống chết kệ dân. Thế giới rầm rộ chuyện chiến tranh bầu cử, ai cũng làm lơ.
    Thấy y buồn, tôi mách y tìm tới câu lạc bộ của Đỗ Quyên. Gọi là câu lạc bộ thì không đúng lắm, mà đó là nhà tư của Đỗ Quyên, nhà rộng rãi khu yên tĩnh và khá sang trọng. Mỗi cuối tuần, chủ nhà làm tiệc, món ăn nhiều và ngon, bầy đầy trên các dãy bàn dài, chả giò, nem nướng, thịt nguội, gỏi, xôi, bánh bao,v.v… Ai muốn dự tiệc, cứ đến và nhớ gọi cho ĐQ một tiếng trước, vì vấn đề an ninh, bạn đến, bạn cứ góp 20 euros và ăn uống tùy thích, ở đó bạn sẽ gặp bạn cũ, có thêm bạn mới, có thể có người cùng bàn thảo quan điểm chính trị, có thể tìm ra bạn tâm đầu ý hợp… và tìm được cả người yêu.
    Mấy bữa sau điện thoại hỏi y: Sao, tới nhà Đỗ Quyên có vui không? Đỗ Quyên là con chim nho nhỏ, có cái cổ màu đỏ xinh xinh. Nói năng rất tình và ưu ái! Chuyện đó biết rồi, mà hỏi y có gặp ai mới vui không?
    À có, có gặp một cái toilette đóng cửa trong kín mít, đập cửa mãi, toilette không chịu mở ra, các bà các cô xếp hàng chờ mãi không được, bí quá phải nối đuôi sang quán café ngoài phố xin cầu cứu…
    Sao Đỗ Quyên lần này kỳ cục vậy?
    Không phải là lỗi ở ĐQ, mà là thằng con trai duy nhất của cô ấy, nó không bằng lòng mẹ nó làm tiệc đãi hoài, nên nó lặng lẽ khóa trái cửa hai nhà vệ sinh lại, rồi bỏ đi chơi xa không nói, thấy cũng vui.
    Sau cùng y kết luận, nói chung ĐQ chịu khó, có thiện chí làm việc cho mình và cho cả mọi người, kẹt cái nhà đông quá, ồn như cái hội chợ, nên con, nó không chịu được.
    Sau y Dung, giờ nói tới y Liên, là chồng của bạn Liên. Y này lanh lẹ lắm, vợ chồng y có tổ ấm ở xa, tận Nice, một lần ba đứa bạn gái tôi rủ nhau xuống thăm Liên và y Liên. Lúc tụi tôi vô tới nhà, y đang bận làm vườn cắt cây cưa cành ngoài vườn rộng. Chập sau xong việc y vô chào, rồi chỉ vô four bếp, nhanh miệng: Chào quý vị, quý vị đi đường xa mệt không? Này, tôi có nướng sẵn mẻ khoai lang mời quý vị, trong lò nướng đó. Khoai ngon đáo để.
    Y có lanh thiệt mà cũng không lẹ bằng tụi tôi, khi sau dòm trong four, không còn một miếng vỏ khoai. Y cười hơi bẽn lẽn: O, cám ơn quý vị tận tình chiếu cố.
    Khoai đã trôi hết vào chỗ vô thủy vô chung…
    Cám ơn, mai tôi sẽ nướng cho một mẻ nhiều gấp đôi chỗ đó.
    Hôm sau thì ăn điểm tâm xong một lúc, y rủ ba đứa tôi ra vườn tập tài chi. Y nổi tiếng về nghề dậy aikido cho dân Tây trẻ quanh vùng y ở. Nhưng hôm đấy, có thấy y Liên dậy võ vẽ gì đâu, y chỉ dậy tụi này đứng, đứng cho vững, đứng trên hai chân, rồi trên một chân và chân kia co, dang theo đủ chiều. Một  hồi có đứa sốt ruột mới hỏi: Võ của anh là võ gì ? Aikido, taekwondo hay judo… hay chỉ có võ đứng thôi?
    Võ tự vệ, võ tấn công hay Việt Võ Đạo… thì trước hết phải tập đứng. Không đứng vững mà ra đòn một cái, rồi té lăn cổ ra đất thì đấu, đá, đỡ được ai.
    Tụi tôi đang xáo xào nhi nhô, thì Liên đứng trong cửa sổ bếp phán rằng: Thôi, dẹp cái trò đó đi, y của tôi ! Tụi nó xuống đây để tâm sự vui buồn với nhà chứ có phải xuống để tập vài miếng võ quèn đó đâu. Lỡ làm sái tay, sái chân nó đi rồi mới là phiền.
    Anh vừa đi vô nhà vừa kể, tôi mới quay lại dậy võ là nghề xưa vài ba năm nay, trước kia tôi chuyên làm hồ sơ giấy tờ cho những người tị nạn ở foyer bên kia đường. Họ là người Việt mình, có cả nhiều người Ấn Độ, Arabe, Tunisie… Họ tội nghiệp cũng như mình, phải bỏ quê hương mà tới đây tạm cư, mặt mày ngây ngô y cây chưa cắn rễ.
    Ngoài việc làm giúp đỡ cộng đồng thiện nguyện, lúc ở nhà, y Liên cũng hay đỡ tay đỡ chân cho Liên trong nhiều công việc nội trợ. Nhưng lúc vui thì làm, lúc buồn, buồn nghĩ về chuyện gì xa xăm là ý ngưng, không thiết động tay động chân nữa.
    Ngày Noël, ngày Tết cuối năm, ngày lịch sử 30-04… y nói y đang bị đắm tàu, y lẩm nhẩm đọc lại đĩa hát “les nauffragés de la liberté“. Liên kể lại trong một năm, y “đắm“ lại một vài lần, còn thường, y siêng tập luyện với học trò. Học trò rất yêu quý y.
    Có một lần đó, Liên bị cảm cúm sao đó, sốt và nằm bẹp trong giường. Y hăm hở nói: Để anh nấu cháo hành cho em ăn là đỡ, anh nấu cháo ngon, nhừ, chín rền. Y đi lấy xoong vo gạo, đổ nước, đặt lên lò và bật bếp, xong, yên trí, y ra salon ngồi vắt vẻo, mở tivi, coi hết đài nọ sang đài kia. Mãi khi có mùi khen khét bay ra, y mới nhớ tới cháo. Liên bảo cháo có khét, không sao, mình hớt lớp cháo trên ra nồi khác. Cháo khê ở đáy nồi bỏ đi. Nhưng y không nghe kịp sao đó, y vội đi lấy cây robot, cắm điện và soẹt… soẹt… soẹt… mấy giây sau, cả nồi cháo đầy, trộn lộn từ trên xuống dưới toàn là mùi khét, màu café… vậy là hai vợ chồng phải ăn cháo khét trong hai ba ngày… cũng ngon, báo hại người bịnh, đắng miệng, ăn cháo kiểu này khó nuốt lắm. Liên thương chồng, cứ vui vẻ ăn cho hết.
    Không kể lâu cái vụ nấu cháo khét, bù lại y Liên làm bếp rất giỏi, y đã từng đứng quán plats à emporter mấy năm mà nuôi nổi các con học xong đại học, chưa kể gửi tiền về giúp gia đình và đồng đội nghèo khó bên nhà.
    Y giỏi nhứt là cái món đùi gà ướp hành tiêu tỏi rồi quết foie gras lên, để thấm kỹ, xong đút lò nướng. Y Liên làm món này rất thơm ngon, mùi bay cùng ngõ, hàng xóm Tây phải sang coi, bắt chước, học nghề, nhưng họ không thể làm ngon qua mặt y Liên được. Nên khi y còn sống, y khoe Giáng Sinh năm nào y cũng có một số khách không đợi mà đến, đặt y là món gà quay hay nướng với gan ngỗng béo. Y khoe là phải nâng niu chăm sóc và kín đáo khía sâu cho gia vị thấm trước một đêm, hôm sau mới bỏ four quay. Y canh đến giờ khách đến lấy là đồ nướng vừa chín, ra lò, vàng, giòn rụm và thơm điếc cả mũi.
    Y có nhiều học trò, có đứa trả tiền đúng cuối tháng, có đứa nghèo, thiếu… mà mãi sau khi y ra đi, vẫn lác đác có đứa mang tiền lại nộp và thẫn thờ.
    Trong một đêm, y bị cảm nhẹ và ra đi vĩnh viễn không kịp từ biệt ai. Chúng tôi, gia đình và học trò đều buồn, thương tiếc, có điều được an ủi là y ra đi lanh lẹ, như có cả phước báu sau cùng trong ngũ phúc của một đời người.
    Y mà tôi kể tiếp theo đây là y Thu, chồng của Thu, y này rất chịu khó làm báo cho hội đoàn, y đánh máy, y viết, y có rất nhiều ý kiến và tư tưởng để viết, y viết lách với các tờ báo ái hữu cộng đồng của chúng tôi một thời dài hơn 20 năm. Y có tài viết về mọi đề tài, kể cả lấy tin tức và bình luận. Ngày ấy, suốt từ thứ hai đến thứ sáu, y đi làm cho một hãng bảo hiểm để nuôi vợ con. Từ chiều thứ sáu là y đã sẵn sàng hiện diện trong cái phòng nhỏ thư viện cho chúng tôi mượn làm trụ sở báo, y Thu chăm chỉ công việc làm cho đấu tranh nhân quyền, tự do cho quê hương Việt Nam. Đi biểu tình ủng hộ tinh thần Trần Văn Bá năm nào anh cũng đến sớm, đi đầu tiên. Y Thu thổ lộ chỉ có những lúc làm việc có ý nghĩa cho quê hương là những lúc y sống thực, thực là con người. Còn cái việc kiếm ăn hàng ngày trên miền đất tạm dung chỉ là lêu bêu, là lục bình trôi vất vuởng, trôi không định hướng, trôi lang thang giữa biển khơi.
    Chúng tôi làm báo là tự lực, dựa trên nhân lực độc lập là tự nguyện của rất nhiều anh chị em sinh viên Việt Nam góp công sức. Các em viết bài, đánh máy, lên trang báo và đi lấy quảng cáo. Dù số trang có hạn, nhưng tháng nào cũng dành vài trang quảng cáo, để lấy tiền trang trải nhà in. Thường thì sinh viên thay nhau đi lấy quảng cáo và gặp chủ nhà hàng, đòi tiền kỳ trước, số tiền này tuy khiêm tốn nhưng góp gió thành bão, cũng được ít nhiều cho thủ quỹ trả công nhà in, đặng còn ra những số tiếp theo.
    Thưa là đi lấy tiền công quảng cáo cũng không dễ. Thường các chủ tiệm hay khất hay đi vắng nhiều lần. Cũng có những người hào phóng trả sòng phẳng và còn ủng hộ đóng góp thêm. Điều này không được quên nói. Nhưng phần những chủ hay khất lần, hẹn tới hẹn lui, thì đi đi lại lại mất công và tốn thì giờ.
    Y Thu có nhiều lần nghe nói đòi tiền quảng cáo hơi khó, y nói, tháng đó, y đi cho. Tháng đó, tháng 12, giáp Tết, y nói y sẽ cố đòi được khá tiền về hy vọng in một số báo xuân đẹp, xôm tụ, dầy và phong phú để ra mắt đồng hương và các cộng đoàn bạn. Y y hẹn mà cuối tuần đó chưa thấy đến trụ sở làm báo. Chúng tôi nghĩ là y bệnh bất ngờ vì đã phải xông pha đòi nợ trong mấy ngày rồi, trời rét đậm đà có tuyết rơi khá dầy. Rồi có đứa đề nghị, mình gọi điện thoại cho anh Hùng, Hùng là tên y, coi ảnh đang ở đâu và có khỏe không? Nhưng điện thoại vừa reo thì y đã tới và đi vô phòng hội, cười, chào mọi người và tháo áo, mũ len treo lên ghế.
    Xin lỗi các bạn, mình kẹt xe…
    Rồi y đặt nhẹ lên bàn một xấp bạc mỏng, hình như là 5 tờ giấy 100 euros.
    Tiền đó nhé, anh thủ quỹ cất đi, nay mai trang trải tiền in.
    Xong y quay ra rót một ly nước trà đầy và ấm anh uống ực một hơi, như vừa nuốt xuôi đi một cục nghẹn.
    Mấy đứa trẻ lao nhao khen lấy khen để: Anh Hùng có duyên quá, kỳ nào đi đòi tiền cũng thành công, lại có nhiều nữa, bravo!
    Ờ, mình có duyên thiệt…
    Cái duyên đi đòi nợ thành công của y Thu, mãi sau này mới nghe nói lại là như vầy: Khi anh tới hỏi xin tiền quảng cáo, ở một tiệm ăn Á Đông lớn giữa khu phố 13, bà chủ mời anh uống nước trước tiên, rồi tiếp theo mới hạ hồi phân giải là: Hàng họ ế ẩm quá, vậy mời các anh ăn phở trừ tiền quảng cáo… được không?
    Thì ra, những lần đi mà không được việc, y toàn bỏ tiền túi ra cho tập thể in báo, y cũng không nói, sợ anh chị em thối chí, mất tinh thần. Giấu mãi rồi có một ngày, có một em sinh viên biết, kể ra, anh chị em ngỡ ngàng, rồi cũng có đứa cắc cớ hỏi: Sao anh không ăn phở đại đi anh Hùng!
    Không, ăn phở và làm báo là hai chuyện riêng rẽ. Rồi từ đó, y phán rằng, in báo, cứ gửi đi, thâu được bao nhiêu, thừa thiếu bao nhiêu, chúng ta, mọi thành viên, mỗi người, nhón tay bỏ vô quỹ ít nhiều tùy khả năng, còn thừa Hùng lấy, thiếu đâu Hùng phụ, đắp đổi cho đủ in, chúng ta góp gió làm bão, mình bỏ ra tí tiền mình được nói cho thiên hạ nghe bao nhiêu điều muốn nói.
    Vì sao ư? Chúng ta là những kẻ đắm tàu, chúng ta không kêu cứu, ai biết đâu ở đâu “au secours!“ Đại để là y Thu can đảm và nặng ký, khá nặng ký. Hay đúng ra, trong cùng một hoàn cảnh, nữ giới đa phần có thể vui cái vui thành đạt của con cái, vui trong công việc làm, trong giao tiếp xã hội, v.v… còn các y, đại để như các y vừa kể trên, các y cũng sống, cũng làm việc thì làm việc đấy, cũng sum vầy con cái đấy, nhưng làm thì làm vậy, vui thì vui vậy, chớ ở môt bên lòng, các y là những kẻ đắm tàu, nặng ký, nhớ lâu nên chìm sâu. Cho nên:
   
Vui thì vui vậy kẻo là
Ai tri ân đó mặn mà cùng ai.
 
Cám ơn cụm từ « y của tôi » của chị Trương Ngọc Bảo Xuân.

 

-- Chúc Thanh

Déc 2023

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.