Hôm nay,  

Những Cô Học Trò Và Đôi Điều Khó Nói

7/5/202400:00:00(View: 3117)

Trước giờ thi, một cô học trò láu táu, “Thầy bao nhiêu tuổi hả thày?” Câu hỏi từ cặp môi đỏ chót và cái nháy mắt từ cặp lông mi lướt thướt làm cả lớp cười ồ. Hồi ấy tôi vừa mới ba mươi, và tôi là ông thầy giáo bị hỏi câu ấy ngay trong lớp học, cái lớp học có quá nửa số học sinh là nữ, và tôi bị hỏi khi đang giúp học trò ôn bài thi cuối khóa.

Quá bất ngờ, ông thầy sựng lại một giây, rồi thong thả trả lời, “Cái này đâu có trong đề thi.”

“Em hỏi là tại vì hồi đêm em nằm chiêm bao thấy thày,” cặp môi cong chậm rãi giải thích. Cả lớp chăm chú lắng nghe. Cô học trò gật gù như chờ cho mọi người theo kịp rồi mới tiếp, “Vì vậy em cần biết tuổi thày để mua số đề.”

Lớp học vỡ toang tiếng cười. Cả lớp xúm vào hùa theo. Những cái miệng lao xao. “Thầy làm gì trong giấc mơ của chị Trang vậy, thày?”, Trang là cô học trò mi cong, môi đỏ ấy. “Đúng rồi, cho số để tụi em mua ké đi thầy.” “Thầy mấy tuổi rồi vậy, thầy?” “Nói thiệt đi thầy, thầy bao nhiêu tuổi…” “Cho số đi, nếu trúng em chia cho thày một nửa.” Học trò đùa giỡn muốn vỡ tung lớp học. Một người còn nhắc lại cái lần xe ông t thầy chết máy, phải nhờ học trò câu bình, và hứa, “Trúng số, em mua cho thầy chiếc xe Lexus, để thày khỏi lo mùa đông xe chết máy.”

Ông thầy lúng túng, cố gỡ rối, “Được rồi, được rồi… Bây giờ lo chuyện thi rồi sẽ tính sau.” Ngay lúc ấy thì nhân viên coi thi vào tới. Cơn đùa giỡn lắng vội xuống như thủy triều rút.

Và ông thầy thoát nạn.

Dạo ấy tôi dạy hai lớp vừa Anh ngữ cho người mới tới định cư, vừa Quốc Tịch. Một lớp đủ các sắc dân, lớp kia toàn người Việt. Hôm ấy là ngày thi của lớp người Việt. Gần ba chục học sinh đủ mọi lứa tuổi hồi hộp chờ nhận đề thi. Để giúp đỡ di dân yếu tiếng Anh, sở Di Trú đổi từ thi vấn đáp sang thi viết. Cuối khóa học, nhân viên di trú đem đề thi đến tận lớp học cho học sinh làm bài và cho biết kết quả ngay tại chỗ. Tôi nghĩ thi quốc tịch ở Canada là thứ thi cử dễ nhất thế giới. Hai mươi câu hỏi. Làm đúng sáu mươi phần trăm là đậu. Nghĩa là không được sai quá bốn câu. Khóa học có sáu buổi. Buổi học đầu, đích thân thày giáo làm hồ sơ và nhận tiền học phí để nộp cho sở Giáo Dục. Lệ phí mỗi khóa học là mười đồng tiền Nữ Hoàng. Công việc đơn giản. Chỉ cần thủ sẵn một ít tiền lẻ để thối lại cho học sinh. Sau sáu buổi của khoá học ấy, thày giáo biết mặt, biết tên tất cả học sinh, nhớ đến cả giọng nói và cách nói chuyện của từng người.

Trừ một người.

Ấy là một cô học trò không bao giờ mở miệng. Liên tiếp sáu tuần lễ, và nếu kể tới hôm ấy thì đã là bảy, chưa bao giờ cô hé môi nói ra một lời. Những móng tay không sơn phết, khuôn mặt không trang điểm hoặc trang điểm rất khéo khiến ông thày không thể nhận ra. Nụ cười buồn và mắt nhìn xa vắng. Chỉ bấy nhiêu thôi. Ngay cả những lúc lớp học xôn xao đùa giỡn, cô cũng vẫn nhìn xa xăm. Tia nhìn xuyên qua ông thày, xuyên qua tấm bảng đen, xuyên qua vách tường trắng, luồn qua những cành phong xanh lá trong sân trường, lượn cùng những đám mây mùa hạ trên cao, và tan biến vào một nơi xa, rất xa, tới nửa vòng trái đất. Chắc đây là một thiếu nữ có tâm sự buồn. Một người xác nơi này nhưng hồn còn lay lắt ở quê nhà. Ông thày đoán vậy và để mặc cho cô học trò xa vắng.

Người ngồi bên cạnh cô học trò xa vắng ấy - tức là cô học trò mi cong, môi đỏ, hay đùa nghịch nhất lớp - khi học về các cấp chính quyền Canada, đã than thở, “Thày, mắc mớ chi mà Canada nhiều đảng quá trời, em nhớ hỏng nổi.”

Ông thầy liếc cô gái thầm lặng một cái rồi nhìn qua người vừa đặt câu hỏi, chậm rãi cái giọng trầm trầm, “Có năm đảng liên bang, ba đảng ở tỉnh bang, đâu có nhiều.”

Cô môi đỏ, mi cong không đồng ý, “Phải như chỉ có một đảng như Việt Nam mình thì khỏe há, thầy?”

Cả lớp rộn tiếng cười. Ông thầy cũng buồn cười và không thể không đồng ý rằng nhiều đảng thì dân chủ thật nhưng khó nhớ tên chủ tịch đảng – vì xứ đa văn hóa nên chẳng những có tên tiếng Anh, tiếng Pháp, mà còn cả tên tiếng Hòa Lan, tiếng Ấn Độ - thêm vào đó là phải nhớ đường lối của từng đảng một. Trước khi quay lại với bảng đen ông thày liếc cô gái thầm lặng thêm một lần. Trên khuôn mặt trái soan ấy, vẫn một nửa nụ cười u uẩn và hai con mắt ngó xa xăm.

Buổi học cuối. Thi Quốc tịch, một thứ thi tốt nghiệp sau khóa học. Không khí nghiêm trọng hẳn lên. Có quốc tịch là yên tâm. Trở thành công dân một xứ sở văn minh và tôn trọng nhân quyền là điều mọi người mơ ước. Nhân viên di trú đến coi thi, chấm bài và trao cho ông thầy bản kết quả thi.

Bà nhân viên nhà nước vừa quay lưng, học trò nhốn nháo ngay lập tức. Bao nhiêu con mắt lo lắng nhìn thày. Nhìn kết quả, ông thầy thở phào và bằng giọng nói thảnh thơi, cho biết cả lớp mình đậu hết. Học trò hét lên và nhào đến mừng rỡ ôm ông thầy. Thầy loay hoay, lúng túng, tay chân rụng rời, thân người mềm nhũn. Những đụng chạm hiếm có giữa những người Việt Nam khác phái đang ập lên người ông thầy. Mùi tóc, mùi mồ hôi, mùi nước hoa, mùi da thịt, mùi dầu gió xanh và cả mùi thuốc lá làm ông thầy choáng cả người. Lúc tìm được một khoảng trống để thở ông thầy bắt gặp bóng dáng cô học trò thầm lặng. Vẫn tóc thả xuôi vai, mắt nhìn xa xăm và nét buồn u uất. Ông thày chợt nhận ra tất cả học trò đều ôm thầy một cái để chung vui, ngoại trừ cô học trò trầm lặng này dù cô cũng thi đậu như mọi người. Lòng thầy giáo chợt nao nao. Trí óc vẽ vời thấp thoáng một chuyện tình đơn phương tội nghiệp. Hôm nay là ngày cuối nếu học trò không nói ra, sẽ chả bao giờ còn cơ hội cho học trò nói nữa đâu. Ông thầy thầm nghĩ.


“Thi đậu rồi, uýnh lộn với chồng có sao hông thầy?” Giữa tiếng cười nói lao xao, giọng cô học trò mi cong, môi đỏ lanh lảnh.

“Không nên,” thầy giáo nói vội. “Chưa tuyên thệ quốc tịch, chưa là công dân, nguy hiểm lắm. Tội hình sự, coi chừng bị trục xuất…”

“Lỡ mình hỏng muốn mà thằng chả cứ kiếm chuyện thì phải làm sao, hả thầy?”

Tiếng cười rộn ràng lớp học. Cô – hay bà - học trò này là người son phấn đặm nét nhất lớp học và cũng là người khi học về địa lý, nhìn vào bản đồ đã cằn nhằn với đầy ẩn ý, “Bản đồ phẳng lì thế này làm sao biết chỗ nào là núi đồi, chỗ nào là sông rạch để mà mò chớ!”

Nhưng cũng nhờ những câu nói đùa như thế mà lớp học bớt khô khan.

Vậy là xong một khóa học. Vài tuần nữa sẽ có lễ tuyên thệ. Ông thầy nhìn một lượt những khuôn mặt Việt Nam thân thuộc. Những di dân này sẽ có cho mình một tấm thẻ quốc tịch và những quyền lợi công dân của một đất nước tự do đúng nghĩa. Sau những lời cảm ơn, những cái bắt tay thân tình, những vòng ôm hiếm hoi, mọi người lũ lượt ra về. Cơn vui lắng xuống như thủy triều rút cạn. Cô học trò còn lại đó. Cô nhìn thầy giáo bằng đôi mắt u uẩn, như có điều gì không thể nói ra nhưng cũng không thể giấu mãi trong lòng.

Bước xuống chỗ cô ngồi, thầy giáo ngần ngừ gợi ý, “Thi đậu rồi mừng há?”

Cô học trò nhỏ nhẹ, “Dạ.” Ấy là câu nói đầu tiên thốt ra từ cặp môi mỏng màu hồng. Suốt bảy tuần lễ đây là lần đầu tiên ông thầy nghe được giọng nói của cô học trò.

“Cô có hỏi gì không?” ông thày nhắc nhắc.

Cô học trò lại “Dạ” rồi ngừng một lúc mới nói tiếp, “Thầy, bữa trước lúc mới nhập học đó...” Cô lại ngần ngừ. Cô học trò bối rối. Ông thầy cũng bối rối theo. Trong lòng xốn xang, ông thầy chuẩn bị thật kỹ để nghe một câu tỏ tình. Nhất định phải là câu tỏ tình. Cứ nhìn ánh mắt thì biết. Từ hồi nhận dạy lớp quốc tịch đã hai lần ông thầy được (hay bị) học trò tỏ tình. Một cô học trò từ Iraq chờ mọi người về hết mới lên bảng viết một hàng chữ Ả Rập lẫn một câu tiếng Anh. Thầy giáo chỉ đọc được câu tiếng Anh vì nó đơn giản: “I love you, Teacher.” Lần khác là cô học trò xứ Nam Tư cũ. Cũng I love you, nhưng thay vì ghi “Teacher” thì ghi tên của ông thầy. Lần ấy ông thầy đã hoảng hốt nhắc học trò ra về cho nhanh. Còn lại một mình, đứng ngẩn ngơ nhìn nét phấn trắng ngoằn ngoèo trên nền bảng đen, lòng bâng khuâng như cơn gió lạc vào lớp học, không tìm được lối ra.

Vì vậy hôm nay ông thầy đoán được câu cô học trò sắp nói. Chắc cô sẽ nói bằng tiếng Việt. Lâu lắm không nghe được câu tỏ tình bằng tiếng Việt. Nhưng vì là thiếu nữ Việt Nam chắc cô sẽ không nói thẳng ra điều cô đang ôm ấp trong lòng. Có thể cô sẽ xa xôi, bóng gió, nói xa nói gần, nói bằng ánh mắt, nói bằng nụ cười, nói bằng cái mím môi, nói bằng đôi mi rung rất nhẹ… để làm lòng ông thầy mềm xuống như sợi bún (bún tươi ở Việt Nam chứ không phải bún khô cứng như kẽm gai, nhập cảng từ Thái Lan hay Hồng Kông bán đầy rẫy ở phố Tàu Toronto!) Học trò tỏ tình thế nào thày giáo cũng chịu hết. Bao nhiêu năm lận đận xứ người, tình yêu hiếm hoi, còn lòng nào mà bắt bẻ những chuyện nhỏ nhen. Em có quyền cải lương. Cỡ nào thày cũng chịu. Miễn sao câu nói ấy diễn tả trọn vẹn những điều em gói ghém trong lòng suốt bảy tuần lễ nay là được.

Nghĩ vậy nhưng ông thầy vẫn cố nhớ xem mình có giảng sai chỗ nào không, chẳng hạn nhớ lầm tên ông chủ tịch đảng cầm quyền thành bà chủ tịch đảng đối lập, nhưng ông thày biết chắc là mình không sai chỗ nào hết. Thế nên ông thầy khuyến khích cô học trò, “Có gì muốn hỏi phải không? Thi đậu rồi, thành công dân Canada rồi vui há. Bây giờ khỏi lo quên tên dòng sông dài nhất Canada hoặc tên ông chủ tịch đảng cầm quyền nữa nhỉ.”

“Thày mau quên quá hà!” cô học trò trách móc với nụ cười. Rồi cả hai cùng im lặng. Mãi cô mới nói được một câu, thật nhỏ, như một lời thì thầm phát ra từ một góc kẹt nào đó của trái tim đang lỡ nhịp, “Bữa hôm nhập học...”

“Nhập học... làm sao?” ông thầy nôn nóng.

Cô học trò chớp mắt, nhìn xuống nền nhà, rên rỉ, “Ui da, sao khó nói quá hà!”

“Thì cứ nói, thầy y không la đâu,” ông thày giáo khuyến khích.

“Bữa hôm mới nhập học đó, lúc đóng tiền học phí đó, em đưa thầy tờ hai chục...”

“Rồi sao nữa?”

Cô gái thở hắt ra, “Thầy quên thối lại em mười đồng.”

Ông thầy giật bắn người. Chuyện ấy có hay không, lâu rồi làm sao mà ông thày nhớ được. Nhưng cô học trò nhớ lâu vậy chắc là đúng. Khổ một điều là hôm ấy thầy giáo không đem theo tiền nên không có mười đồng để trả cho cô học trò.

Lớp học ấy và bao nhiêu lớp học khác đã qua. Ấy là một thời tôi đã đong đếm được vô số kỷ niệm đẹp. Những lớp học ở xứ người đầy ắp học trò Việt Nam đủ mọi lứa tuổi nhưng vẫn giữ tình thày trò thắm thiết, và dẫu chỉ là lớp học ESL và Quốc Tịch nhưng cũng đã cho tôi sống lại một thời ca dao xưa, rất xưa (dẫu đã ít nhiều lạc điệu) rằng “muốn con hay chữ thì yêu lấy thày”. Chỉ tiếc là cho tới bây giờ tôi vẫn thiếu nợ cô học trò trầm lặng mười đồng tiền Canada. Dù những khóa học sau đó tôi luôn thủ mười đồng trong túi chờ cô ghé qua để nhận lại, nhưng cô biến đi như cánh chim lao vào cơn bão.

Và thỉnh thoảng tôi lại băn khoăn không biết mình đã làm chuyện gì trong giấc chiêm bao của cô học trò mi cong, môi đỏ, người đã đòi tôi khai tuổi và than phiền rằng bản đồ Canada phẳng lì, nhìn không biết đâu là núi non, sông rạch để mò cho chính xác.
 
 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước
Nàng tỉ tê với nhỏ bạn về những cuộc “thảo luận” sôi nổi của vợ chồng nàng. Bằng mọi giá, nàng muốn giữ cho đứa con có tuổi thơ tươi đẹp, hạnh phúc. Bao năm qua, đã có lúc nàng buồn rầu nghĩ, mình như con gà đẻ trứng vàng. Chỉ được việc, nhờ biết đẻ trứng vàng. Nàng không dám đề cập đến chuyện tiền bạc, sợ làm chồng buồn, cho rằng nàng cậy sức mạnh kim tiền lấn áp chồng. Nàng rất may mắn trong cuộc sống ngoài xã hội. Chưa ra trường, nàng đã nhận được hợp đồng làm việc với một trong những hãng hàng đầu của nước Đức. Ngược lại, chồng nàng quá lận đận. Cả năm trời, anh chạy đôn, chạy đáo tìm việc, mà vẫn phải nằm nhà. Nàng tự nhủ, tài lộc trời ban, gia đình sống thoải mái, chứ tính toán chi mà mất hòa khí vợ chồng. Tháng tháng, nàng thanh toán nợ to, nợ nhỏ, hàng hàng lớp lớp chi phí tất yếu của xã hội văn minh.
Xíu tiếp tục cuộc hành trình bất tận của mình, đừng tưởng Xíu chơi hoang hay đi rông, phiêu bạt giang hồ vô tích sự. Chính sự lang bạt kỳ hồ của Xíu và anh em nhà Xíu đã đem lại mưa thuận gió hòa, đem lại nguồn sống cho loài người và vạn vật muôn loài. Lần này Xíu quay về lại góc Đông Nam Á châu, nơi có dòng sông thiêng liêng chảy qua.
Tôi không phải là thi sĩ, nhưng chắc cũng giống như những thi nhân của đất Việt, thường gửi gấm tâm tình u uất vào những vần thơ của mình. Những bài thơ viết xong, tôi cặm cụi chép vào nhật ký, xen vào những lời than thân trách phận, hờn mây khóc gió. Cuốn nhật ký, tôi cất kỹ trong ngăn kéo ở cái table de nuit cũ kỹ bên cạnh chiếc giường nhỏ trong phòng ngủ. Cũng may là má chưa lục ra đọc lần nào...
Cuối cùng, vợ tôi cũng đồng ý một cách vui vẻ cho tôi lấy vợ bé. Một hành động vượt ra ngoài quan niệm ái tình nghiêm túc của bà. Vợ bé tên Hà, do vợ lớn đặt. Tên khai sinh của Hà là Đỗ thị 451. Vợ lớn nói, số này hên, cộng lại là 10. Hà lai Ái Nhỉ Lan. Ở lứa tuổi gần ba mươi, chưa lấy chồng, không có con, một thân hình phước đức cho bất kỳ người đàn ông nào, sáu mươi bảy tuổi, như tôi.
Kế hoạch của anh ấy thật là hợp lý: anh ấy sẽ giấu tôi phía sau cốp xe Austin-Healey, một chiếc xe dạng rất thấp mà anh vừa mới mua bên Áo và đã tháo kính che gió ra. Chúng tôi chỉ cần đi qua bên dưới rào chắn, trong khi mấy tên cảnh sát nhân dân Vopo*2/ thì bận lo kiểm tra giấy tờ như thường lệ. Rolf đã tính toán nhiều lần, tính đi tính lại, anh lại còn xì bớt hơi các bánh xe: như thế cái xe sẽ không vượt quá 90 cms bề cao. Anh chỉ cần cúi đầu xuống, nhấn mạnh vào cần tăng tốc, thế là chúng tôi sẽ qua bên kia địa phận đất Mỹ! Một "bờ thành" nhỏ làm bằng gạch sẽ bảo vệ tôi khỏi những lằn đạn có thể xảy ra. Và rồi sau đó là tự do...
(Viết cho bằng hữu tháng tư 1954. Chúng tôi 300 thanh niên trình diện trại Ngọc Hà động viên vào Đà Lạt cùng hát bài ca Hà Nội ơi, năm 20 tuổi chưa từng biết yêu. Sau 21 năm chinh chiến, tháng tư 75 khóa Cương Quyết hát tiếp. Bao nhiêu mộng đẹp, tan ra thành khói, bay theo mây chiều. Ngày nay, tháng 7-2024 vào nursing home thăm bạn cùng khóa. Ba anh bạn đại tá lữ đoàn trưởng mũ xanh mũ đỏ cùng đại đội võ bị ra đánh trận Quảng Trị chỉ còn Ngô Văn Định. Ghé lại bên tai nghe Định hỏi nhỏ. /Bên ngoài còn mấy thằng,/ Còn liên lạc được 4 thằng. Ngoài 90 cả rồi.Tôi báo cáo./ Thằng Luyện mới đến thăm./ Định nói./ Luyện nhảy Bắc 21 năm biệt giam mà còn sống. Hay thật./ Tôi nói./ Bạn yên tâm. Ngoài này còn thằng nào chơi thằng đó./ OK bạn còn sống lo cho anh em.)
Năm Giáp Ngọ 1954 có thể gọi là năm đại diện cho tuổi thơ tôi. Chỉ trong một năm 1954 đã có quá nhiều biến cố xảy ra dồn dập trước mắt chú bé mười hai tuổi mà suốt trong đời chưa có thời điểm nào đặc biệt như vậy...
Dẫn nhập: chuyện này được viết khi sắp tròn nửa thế kỷ Sài gòn bị mất tên. Qua một phần đời của một vị Thầy dạy Toán, gắn liền với nhiều thăng trầm của lịch sử từ Việt Nam đến Mỹ, cùng nhìn lại những vết chân xưa với hy vọng các thế hệ kế tiếp học hỏi được nhiều điều để đưa được đất nước trở về vị trí "minh châu trời Đông"
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.