Hôm nay,  

Tiếng Chuông Thiên Mụ

01/12/202408:06:00(Xem: 2986)
đại hồng chung chùa chuông Thiên Mụ
Đại hồng chung chùa Thiên Mụ.

 

Dù bạn chưa từng đến Huế, nhưng đã từng nghe tiếng địa danh này qua hai câu hò quen thuộc:
 
Gió đưa cành trúc la đà,
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.
 
Tiếng chuông Thiên Mụ được gióng lên từ cái đại hồng chung đúc bằng đồng vào năm 1710 của chúa Nguyễn Phúc Chu (1675–1725) tặng cho chùa.  Chuông nặng gần 2000 kg, cao hai mét rưỡi, và được công nhận là bảo vật của quốc gia từ năm 2013.  Thật ra chùa Thiên Mụ có đến hai cái đại hồng chung.  Cái thứ nhì nhỏ hơn, nặng 400kg được vua Gia Long tặng.
    Chùa Thiên Mụ được chúa Nguyễn Hoàng (1525-1613) cho lệnh xây cất từ năm 1601.  Vua Tự Đức (1828-1883) có rất nhiều vợ nhưng không con nối dõi.  Năm 1862 đang lúc cầu tự, e ngại chữ thiên (nghĩa là trời) chạm đến các bậc thiêng liêng, vua cho đổi tên chùa thành Linh Mụ.
    Lần đầu tiên có tiếng chuông Thiên Mụ chắc là phải sau năm 1710.  Không biết câu hò “tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương” được ai viết ra và từ bao giờ, nhưng rất có thể, vị vua đầu tiên nhắc đến tiếng chuông Thiên Mụ là vua Thiệu Trị; bởi vì bài thơ “Thiên Mụ Chung Thanh” của vua Thiệu Trị được khắc trên bia đá và bia này được dựng lên từ năm 1846 hiện nay vẫn còn ở trong khuôn viên chùa. 
    Bài thơ Tiếng Chuông Thiên Mụ trên Wikipedia tiếng Việt có những câu như sau: 
 
[…]
Bách bát hồng thanh tiêu bách kết
Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên
Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm
Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền
[…]
Dịch là:
[…]
Tiếng ngân trăm tám tan trăm oán
Thế giới ba ngàn giải nợ ba
Chuông động giữa trưa miền tối ám
Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia
[…]
 
Dựa vào bài thơ của vua Thiệu Trị, chuông được gióng lên 108 tiếng vào giữa trưa để giải tỏa 108 tội lỗi của con người.  Tôi đến xem chùa Thiên Mụ và tháp Phước Duyên, ở không đủ lâu, hoặc là không đủ duyên lành, không được nghe hồi chuông gióng giả.
    Chùa Thiên Mụ tọa lạc trên ngọn đồi cao tên Hà Khê.  Tương truyền, sau khi cha của chúa Nguyễn Hoàng là Nguyễn Kim bị quan nhà Trịnh dùng thuốc độc ám hại và anh ruột (Nguyễn Uông) bị Trịnh Kiểm giết chết, chúa Nguyễn biết là chúa Trịnh sẽ không để ông yên nên vấn kế Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm xin tìm cách giúp thoát thân.  Ông được Trạng Trình tặng cho câu sấm “Hoành Sơn nhất đới, vạn đại dung thân” có nghĩa là một dãy núi nằm ngang có thể làm chỗ nương thân muôn đời. Nguyễn Hoàng dẫn quân lấy cớ đi đánh giặc vượt Hoành sơn vào Thuận Hóa rồi bắt đầu xây dựng cơ đồ.  Khi đi ngang đồi Hà Khê bên cạnh dòng sông Hương uốn khúc, nhìn giống như con rồng đang ngoảnh đầu ra phía sau, phong cảnh vừa hữu tình vừa hợp phong thủy bèn chọn vùng đất này để xây thành dựng nước.  Kinh đô Huế chỉ cách chùa Thiên Mụ chừng 5 km.
    Năm 1844, vua Thiệu Trị cho xây tháp Phước Duyên để mừng lễ “bát thọ” của Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu (vợ vua Gia Long, bà nội vua Thiệu Trị).  Tháp Phước Duyên có bảy tầng, cao 21 mét, được đặt trên khoảng sân rộng hình thang.  Tương truyền mỗi tầng đều có tượng Phật, và đặt trên tầng cao nhất là tượng Phật bằng vàng nặng 12 kg.  Ngày nay cửa vào tháp được khóa kín không biết bên trong có còn tượng Phật cổ nào hay không.  Riêng tượng Phật bằng vàng tương truyền đã bị mất trộm vào tay một tên quan cầm quyền người Pháp.
    Huế có nhiều chùa, nhiểu lăng tẩm không thua gì Kyoto của Nhật Bản. Nổi tiếng đẹp nhất Huế (và có lẽ nhất miền Nam lúc bấy giờ) là chùa Thiên Mụ. Chùa của vua xây, được nhiều vị vua đến tham quan, và đề thơ ca ngợi, không đẹp sao được.  Ngoài tấm bia khắc bài thơ của Thiệu Trị, còn bia khắc bài văn của chúa Nguyễn Phúc Chu, và một bài thơ của vua Khải Định vẫn còn ở chùa Thiên Mụ. Sau Thiên Mụ, chúa Nguyễn Hoàng còn cho xây thêm bốn ngôi chùa nữa.  Chúa dụng tâm dùng đạo Phật để trị an thiên hạ.  Có lẽ không ngoa khi bảo rằng vào triều đại nhà Nguyễn, Huế là cái nôi phát triển Phật giáo.
    Có chùa thì phải có chuông và trống. Đó là lễ nhạc của Phật giáo.  Tiếng chuông chùa, đặc biệt là tiếng đại hồng chung, rất trầm ấm ngân nga, luôn gây cảm xúc trong lòng các nhà thơ từ xưa đến nay.
 
tm 1
Ảnh bên trên là tấm bia khắc bài thơ Thiên Mụ Chung Thanh (Tiếng Chuông Thiên Mụ) của vua Thiệu Trị (1841-1847).  Bia dựng năm 1846.
 
Huế nổi tiếng mưa. Những cơn mưa kéo dài hằng tháng đầy thơ mộng mà cũng buổn rũ rượi, xuất hiện rất nhiều trong văn thơ và nhạc.  “ Chiều nay mưa trên phố Huế. Kiếp giang hồ không bến đợi. Mà mưa sao vẫn rơi rơi hoài cho lòng nhớ ai.”[1] Tuy vậy, tám ngày tôi ở Huế ngày nào cũng nắng đẹp.
    Sông Hương nước chảy hiền hòa sóng lăn tăn vỗ về mạn thuyền hình đầu rồng cập bến trước chùa Thiên Mụ.  Phượng vỹ vẫn còn nở hoa rực rỡ như những đốm lửa cháy trên trời xanh. Mây trắng bồng bềnh như trôi ra từ câu thơ “bạch vân thiên tải không du du.”[2]
    Tôi bỗng có cái cảm giác tôi đã từng gặp cảnh này ở đâu đó, vào một kiếp nào đó, rất xa xưa.  Năm 2005 tôi đã từng đến nơi này.  Một tấm ảnh cũ gần hai mươi năm trước có tôi tóc dài chấm ngang hông, bước dọc theo ven bờ sông Hương, bên trên là chùa Thiên Mụ. Nhưng cái cảm giác déjà vu không phải từ chuyến đi vội vã ấy. Tôi không kịp xem chùa và tháp đã phải vội vã xuống thuyền đi dọc sông Hương đến xem lăng của một vị vua nào đó.  Cái cảm giác déjà vu này cũng giống như lúc tôi ngẩn ngơ đứng bên cạnh dòng kênh ở thành phố Uji của Nhật.  Rồi tôi nhận ra cái cảm giác quen thuộc từ kiếp nào đó nằm trong mấy câu thơ.
 
Cô Tô thành ngoại Hàn San Tự
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.
 
Hình ảnh những chiếc thuyền rồng đưa khách trên sông Hương vào đêm trăng sáng với những câu hò mái đẩy và những bài ca Huế, cùng với tiếng chuông chùa lả lướt trên sông, quả là một hình ảnh đầy chất thơ dù tôi vẫn biết tiếng chuông Thiên Mụ được gióng lên vào buổi trưa chứ không phải nửa đêm như tiếng chuông chùa Cô Tô.
    Basho tự hỏi.  Tiếng chuông chùa có hay không có thật.
   
The temple bell stops—
but the sound keeps coming
out of the flowers.
 
Tiếng chuông chùa đã ngừng
Nhưng âm thanh vang mãi
Từ trong những đóa hoa
 
Trong khi thơ của Basho có chút bâng khuâng giữa cái thật và ảo, người đọc không cảm thấy nỗi buồn tiếng chuông chùa gợi lên như trong bài hát Việt.
 
Chiều tàn đêm buông xuống
Tiếng chuông chùa vang não nùng
Đâu tiếng Mẹ ru con
Chìm lắng êm bên rèm thưa.[3]
 
Hoặc gợi nhớ nhung một mối tình không còn nữa.
 
Tên ai còn tha thiết
Trong tiếng chuông chiều đưa[4]
 
Trở lại với tiếng chuông Thiên Mụ, tôi không khỏi tự hỏi vì sao nhà thơ khuyết danh nào đó đã viết câu thơ “tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương.” Câu thơ được dùng để đánh dấu thời gian, 108 tiếng chuông từ giữa ngọ ở chủa Thiên Mụ, và tiếng gà gáy sang canh ở làng Thọ Xương[5] ở bên kia sông?
    Hay vì một lý do nào khác? Ai biết?
 
– Nguyễn Thị Hải Hà
(Ngày 26 tháng 11 năm 2024)
 

[1] Nhạc Minh Kỳ, thơ Tôn Nữ Hỷ Khương

[2] Hoàng Hạc Lâu – Thôi Hiệu

[3] Dạ Tương Sầu -

[4] Vết Chim Bay – Phạm Thiên Thư

[5] Làng Long Thọ (còn gọi là Long Thọ Cương)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.