Trang Thơ

25/05/202313:08:00(Xem: 2387)

NGUYỄN HÀN CHUNG


kkml 


Tôi sinh ra ở làng Phong Nhị xã Điện An bây giờ bên cạnh một ngôi tháp đổ chỉ còn một gò gồm các khối gạch vụn dính vào nhau mà không có hồ. Cuối gò có một cái mả vô chủ mẹ tôi nói đó là cái mả Hời.Tôi không biết Hời là gì cho đến khi lớn lên độ 10 tuổi mẹ tôi chỉ những người nói tiếng Việt lơ lớ da đen sạm. Họ thường ngồi ở bờ sông phía hữu ngạn sông Vĩnh Điện đường xuống chợ chiều. Chợ thuộc phường Vĩnh Điện, Điện Bàn bây giờ để bán thuốc dạo và các vòng vàng trang sức.Tôi đọc Kiều đến câu “Sè sè nấm đất bên đường/ Rầu rầu ngọn cỏ nửa vàng nửa xanh” nên tưởng ra người nằm dưới mộ đó là một nàng cung nữ Chiêm nương nào hồng nhan bạc mệnh. Sau này tới Tháp Bằng An, Mỹ Sơn tôi mới biết có nhiều triều đại bây giờ đã mất và con cháu họ thành người vong quốc. Ba bài tôi viết dưới đây khi còn ở quê tưởng nhớ một quá vãng vàng son Chiêm quốc... Bây giờ nơi đó là đài kỷ niệm quân đội Nam Triều Tiên thảm sát hàng trăm người bà con thân tộc của tôi năm1968 có cây đa dù cao ngất nơi tuổi thơ tôi cùng bè bạn leo cây hái lá đùa giỡn suốt ngày (NHC):


***


Trăng tranh

Người đắm trăng, chìm vào tranh
Tháp tháp lung linh huyền hoặc
Linga hiện thành thánh thể
Sắc hoang phế mê tràn bộ tộc
Tiếng người thảng thốt trăm năm
Chiếc cọ hẩm hiu thổi nồng nàn lên vải
chập chùng khao khát
Trăng tranh không dám quấy nhiễu thời gian
sợ động đến nỗi niềm biên thuỳ cây cỏ
Khách bên trời ngắm đền đài hoang phế
ngắm trăng hay ngắm tranh không ai biết nữa
chỉ biết trăng, tranh và người đọng lại
thành khối ca Chiêm mới mẻ chập chờn
Tôi gặp vô cùng tranh trăng Mỹ Sơn
bằng mối tình Quảng Nam quê kiểng
Trước tháp tháp lung linh huyền hoặc
Trăng Linga đắm vào tranh.


Khúc Chàm nâu

Những chùm rêu bầu bạn áo xiêm em
cuộc hôn phối thời gian và cổ tháp.
điệu múa ấy làm hồi sinh phế tích
trong vô thanh phảng phất nét ca Chàm.
Cỏ bàng hoàng từ mấy trăm năm
em vẫn múa sá chi màu dâu bể.
đã tro bụi những hoàng triều chuyên chế
mọi trò chơi phù phiếm bậc quân vương
Người về đây để được tái sinh em
sự già cỗi hoá thanh xuân quyến rũ
những gót nhảy, tay xoè hông múa
không dễ tìm đâu trên thế gian này
Đừng hao mòn vì một thoáng mưa mây
Chiêm nữ ạ! Em vĩnh hằng tĩnh tại.
cứ vũ lộng hồn em đi, cô gái
thời gian xanh quỳ rạp trước em thôi.
Đừng bắt những chùm rêu phải nhận chịu đổi dời
xin van vỉ kẻ nguôi lòng cổ tích
Tôi muốn hoá thành rêu để ôm em thật chặt
mốc meo nhau ngôn ngữ không lời.
Trong hoang tàn diễm lệ Mỹ Sơn ơi!


Với tháp Bằng An

Người người hoan ca Mỹ Sơn quần tháp rêu phong
trơ trọi một mình em, một tháp
mấy ai biết
muốn trả cái giá bằng an
bao thân thế sa mưa
bụi vùi, rêu lấp
Ta có mấy rượu đâu
mà tiếc đau những cặn giọt thừa
những cọng cỏ trước sân khát khao đòi sáng
dưới cỏ có dế, giun chán vạn rẻo đời sinh, ly, tụ, tán
có khi thèm trơ trọi giống hai ta!
Một là người không có lương tâm hai là bậc vĩ nhân mới dám gọi tháp già
trước huyền hoặc vô cùng ẩn ngữ
không ai trước khi sinh ra đã biết chọn cho mình một bằng an quê xứ
phúc phận đời ta sinh quán cùng em
cớ gì đêm nay không dốc cho sụp đổ hết ưu phiền
bắt đôi nghê đá khuân bàn tiếp rượu
Kính nể tháp không dám lộng ngôn xưng hô mạo muội
chỉ dám mê nhìn thấp thoáng bóng Linga
trong vô tận thời gian
những điệu kèn phương nam thăm thẳm âm ba
đôi mắt cội nhiệm màu gốc tháp
Bấy lâu uống rượu thời gian mà không biết nhắp
lạc giữa sắc rêu những kẽ gạch không hồ
mơ màng nghe giọt bụi rêu khô…
ta quay quắt một mình nâng... một tháp
Một chén nữa thôi rót yêu tràn tan, hợp
ném buồn đau rách rưới phía chân mày
tháp không già thì ta cứ trẻ hây
cái thuở ranh hoang cứ lăm le đòi trèo lên đỉnh tháp
Rượu có chát, rót Thu Bồn ra, dốc tiếp.

– Nguyễn Hàn Chung

 

Cảm nhận ngắn của SẤU MÃ (GS PHD)

Có thể nhận thấy điều gì về cốt cách người thơ được thể hiện qua đây? – Biết kính sợ, biết nâng niu, biết giễu cười và biết… ngạo. Có gì mâu thuẫn giữa kính sợ và ngạo? Không, không mâu thuẫn. Kính sợ là kính sợ cái “huyền hoặc vô cùng ẩn ngữ”, để biết vặn nhỏ lời, và “không dám lộng ngôn”. Còn ngạo là sự bộc lộ thái độ tự nhiên của người luôn tự ý thức, đồng thời hiểu rõ các giá trị đời sống, hiểu rõ cái giá phải trả cho sự bằng an và nỗi cô đơn “trơ trọi một mình em, một tháp”. Ngạo, ngoài ra, là biểu hiện thường thấy ở những cuộc dốc lòng với kẻ tri âm. Lúc đó, chỉ “hai ta” là tồn tại duy nhất có ý nghĩa, dù một trong hai có thể chỉ hiện lên trong tâm tưởng…
    Đọc thơ thấy người, thấy một thời, thấy cả một vùng xứ sở, tuy xa xôi mà luôn gần gũi. Rất nhiều nỗi đời xoắn xuýt quấn quanh hình tượng chính: tháp Bằng An. Hiền huynh, em thích nhiều câu, như thích nhất khổ này: “Ta có mấy rượu đâu/ mà tiếc đau những cặn giọt thừa/ những cọng cỏ trước sân khát khao đòi sáng/ dưới cỏ có dế, giun chán vạn rẻo đời sinh, ly, tụ, tán/ có khi thèm trơ trọi giống hai ta”. Như vừa được gặp trực tiếp đúng một người từ lâu mình quý trọng. – Ảnh nữ Chiêm nương thi nhân Kiều Kiều Maily.

 

***

 

QUẢNG TÁNH TRẦN CẦM

 

Transcendence in Paradise (1935) - Marguerite Blasingame (1906-1947)
Transcendence in Paradise (1935) của Marguerite Blasingame (1906-1947).


vói tay trên sóng  

 

đôi khi tôi thấy nàng trôi giạt

giữa đại dương bao la xám xanh

nhìn mặt trời treo ngược buổi hừng đông

và rất lâu tấp vào bãi cát đầy rong biển

cùng rác rưởi phế thải linh tinh

chào đón ngày mới trong không gian cũ

 

đôi khi tôi dựa cột đá trơ lạnh

bâng quơ nhìn nước triều dần lên

tôi thấy mái tóc đẹp như mây

về giăng ngang chân trời

và hơi thở chới với ngụp lặn trên sóng

bốc hơi chậm từ ly cà phê đen quánh

 

qua hai hốc mắt thẳm sâu

người mẹ ngó quanh cột cờ ảm đạm

ngó tới ngó lui đảo mắt tìm kiếm

(bỡ ngỡ nghe chừng tĩnh vật cũng đau) 

và tôi vô tâm ngó hàng dương phía xa

lung linh tan loãng trong nắng gió huyễn hoặc

 

trong khoảnh khắc lũ chim biển đập cánh kêu thất thanh

một ngày thảng thốt lướt qua

không một ai để lại dấu chân trên cát

không một vết tích  ̶ ̶ ̶  dù thanh mảnh. 

 

chưa một lời chia tay   

 

nàng vụt thoát thân qua màn hình tivi

(nếu không là qua khung cửa sổ)

vượt buổi chiều hối hả

bước chân vào đêm thắp sáng đèn lồng

 

bất chợt nàng cất tiếng cười ha hả

sau cơn khóc tỉ tê

dằn vặt trong một thế giới khác

riêng tư không chia sẻ

ôm chầm nỗi buồn trong sáng pha lê

nỗi buồn không cần khuyến mãi

 

tôi chăm chỉ cắt dán danh tính ưu việt

của chú chó cưng nàng bỏ lại

trân trọng rao hàng trên báo lá cải

này này ông đi qua bà đi lại... 

 

và trong âm vọng giọng cười hả hê

từng chập mắt nàng linh hoạt mở to

lối an nhiên đi vào cõi kỳ bí xa xăm

 

một thoáng chú chó cưng gặm nát mục rao vặt trên báo

chạy như biến qua cánh cửa khép hờ

bóng nó ở lại bên này  ̶ ̶ ̶  với tôi. 

 

– Quảng Tánh Trần Cầm

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Mối tình đầu đã giết dì tôi / như người ta giết bông hoa / cắm lên bàn thờ / héo hon tháng ngày còn lại. / Dì tôi yêu thích và buồn theo tiếng hát / “Đồi Thông Hai Mộ” / Như thể mối tình trong ca khúc này / là tâm sự của dì tôi.
nguyên thủy là kêu gọi trở về / nơi cánh đồng của những trong lành tươi mát / chưa nảy sinh những dị biệt / chân đi trên phù sa / ướt những tấm lòng xanh ngát bao la
một ngày trôi giạt theo sóng vào bờ / một ngày quấn quýt từng bước chân trần / tuổi trẻ bềnh bồng không định hướng / một ngày câm nín xao động ôm trái tim mình / bay cao ngang ngửa trên ngọn cây mộc lan / trập trùng những nụ búp xanh tươi mơn mởn
Tập thơ thứ 11: “Đời Sống Làng Quê” ấn hành năm 2009. Được xem như một khúc quanh trong sự nghiệp thi ca của Louise Gluck. Khác hẳn với tập “Hoa Diên Vĩ Hoang Dại”, 1992, với nội dung siêu hình và siêu nhiên, đã tạo cho bà nhiều danh vọng. 1. “A Village Life” mang đến cho độc giả những cảm xúc thâm trầm về tâm sinh lý của cá nhân và xã hội. Một loại xã hội thực tế, dùng lám ẩn dụ, tuy hiện diện nhưng gần như bị lãng quên bởi đời sống phố thị rộn ràng nhốn nháo. Những mẫu chuyện ngắn thật ngắn, nhỏ thật nhỏ, đôi khi phức tạp, ly kỳ. Đa số bình thường với những nhận xét tinh tế:
Đàn ông biết được phụ nữ bao nhiêu? Tôi dùng chữ “biết”, không phải ý chữ “hiểu”. Tôi không dùng chữ “đàn bà” vì e rằng thiếu kính trọng. Tôi lấy vợ đã gần nửa thế kỷ. Đã bắt tay, chào hỏi vài ngàn phụ nữ và nhìn ngắm họ qua trăm ngàn vóc dáng khi du hành nhiều nơi trên thế giới, nếu tính luôn trên truyền hình, qua video, con số có thể lên hàng triệu. Nói như vậy, bạn đọc có thể lầm tưởng tôi là người có bản lãnh biết về phụ nữ, thực tế, như Louis de Bernières đã nói: “Đường lối phụ nữ chinh phục trái tim đàn ông là khiến cho anh ta tưởng bở đang làm cô thích thú.” (“That's how a woman wins a man heart, by making him think that he amuses her.)
điều nguyên vẹn nhất / vẫn nằm im trong tim / ngày mùa thu nhớ dòng sông / nấm đất buồn tênh bên lở bên bồi / quăng viên sỏi trắng cạnh chiếc cầu run rẩy / bàn tay nào níu giữ / bạn bè và tình nhân / ngẩn ngơ năm ba lời tiếc nuối / con chim non hót mấy tiếng cội nguồn
Thế giới giờ này người né người! / Ngồi trên xe bus gắn máy lạnh, hoặc xe bò cọc cạch lăn bánh, / người ngồi xa người, khoảng cách an toàn, một thước rưỡi. / Anh xa tôi! Tôi xa em! Ta xa nhau! Đúng 2 thước. / Giờ này đôi ta hôn nhau nụ hôn gió qua khẩu trang! / Ai đó lỡ miệng ách-xì một, hoặc hai tiếng, hoặc một tràng; / Hết rồi những ánh mắt ái ngại, / những lời nói cảm thông, “God bless,” hoặc “Trời, Phật, Chúa chữa!”
Mời các bạn đọc một ngụ ngôn tân thời của thi sĩ Nobel Louise Gluck. Bóng tối che đậy tội ác. Che giấu những con mèo từ rừng hoang xuống trà trộn vào thành phố. Ban ngày, chúng hiền lành. Về đêm, mèo lộng hành, bè đảng, lòng dạ hung tợn, ngay cả người cũng sợ. Chúng săn đuổi, tiêu diệt những sinh vật không có sức kháng cự. Thảm thương cho thân phận làm chuột. Ngày không dám nhìn mặt trời. Đêm la hét đau đớn dưới răng mèo sắc bén. Chết, Chuột chết la liệt đầy phố đêm. Ai biết? Biết rồi, ai nói? Trước khi trời sáng, xã hội quét dọn, đường phố sạch sẽ, không dấu vết sát thủ, nạn nhân. Mặt trời lên. Mèo hiều hậu, dễ thương, Chuột trốn nắng. Người vô tư. Nhưng rồi đêm sẽ đến, sẽ tiếp diễn máu me và định mệnh.
Mời nghe Alexandra Huỳnh đọc bài thơ Di Sản (Inheritance) "live" trên đài truyền hình LX News. Nữ sinh gốc Việt Alexandra Huynh, tên Việt là Thụy An, 18 tuổi, trong buổi chung kết đêm Thứ Năm 20/5/2021 vừa qua đã thắng giải: "2021 National Youth Poet Laureate -- Nhà Thơ Khôi Nguyên Giới Trẻ Quốc Gia 2021". Huynh trả lời phỏng vấn AP đêm Thứ Năm qua điện thoại từ nhà, rằng thơ đối với cô là phương tiện để tự bày tỏ và để giúp công lý xã hội. Cô nói “Tiếng Việt tự nó đã là một tiếng nói giàu chất thơ. Trong sinh hoạt văn hóa của người Việt người ta đã nói thành thơ trong cuộc sống hằng ngày.” Cô cho hay là đã tập viết những lời thơ phổ nhạc từ khi mới 7 tuổi; đặc biệt là sau những lần đọc thơ trước công chúng thì lại càng cảm thấy sức mạnh của chữ nghĩa có tác động tích cực lên tâm lý và tinh thần đại chúng. Alexandra Huynh căn bản sáng tác thơ bằng tiếng Anh nhưng luôn nuôi hy vọng là sẽ có tác phẩm thơ ra đời và sẽ được chuyển ngữ sang “tiếng Mẹ đẻ”, ngôn ngữ Việt Nam.
nếu tôi không thể là người hùng / tôi mang tên người di dân gương mẫu / ôi những chiếc thuyền / & những người trên những chiếc thuyền ấy / can đảm biết bao & khác xa / đám tỵ nạn đương thời chúng ta nợ họ / Tôi ngậm chặt lưỡi / nghe âm thanh / thân thuộc gần như nhà mình / khi tên Dương Thu Hương mất đi dòng sông / trong miệng lão thầy / và chẳng ai buồn hỏi vì sao / mặt tôi giàn giụa. & nhớ đến chiếc bàn buồn bã, / trong góc xó lớp học / tôi viết lời nguyện cầu / cho lũ trẻ sắp vào chật lớp này: / hãy để đám trẻ được xưng tên chúng như mẹ chúng đã từng gọi thế. / hãy để điệp khúc được xướng lại hay cố gắng & cố gắng như thế. / hãy để những câu chuyện không pha chất trọ trẹ / & giữ lại thanh âm không phiên dịch. / hãy để lũ trẻ điền vào khoảng trống bằng ký ức.