quê núi

04/12/202419:04:00(Xem: 2201)

tặng người cùng quê

 

 

channuixanh
tranh Đinh Trường Chinh



Trèo lên đỉnh dốc, đời sẽ thấy

Một rừng. một núi. một quê hương

Thảng thốt kêu bầy, chim ông lão

Than già như cây cội tà dương

 

Quê ngồi dưới gốc buồn thiu thít

Cây tre còn trẻ đã phong trần

Lá bay theo gió mười phương thổi

Tản mạn như người buổi chiến tranh

 

Bùi ngùi quê khóc không thành tiếng

Đất đỏ tràn đi khắp nẻo đường

Nắng bụi mờ trời, mưa lầy đất

Con chó còi nhai miếng thảm thương

 

Gió chướng thổi qua cầu

Mười Bốn Cầu già như một bộ xương khô

Trăng soi lạnh cả vùng sông nước

Mạn ngược xuồng ai cố chống vô

 

Hoa cà phê đắng, hương nồng, ngất

Rỉa rúc vào tim thấm lịm hồn

Ruộng rẫy khuya về rêm tiếng suối

Mõ ốc cầm canh rợn cô thôn

 

Thấp thoáng gì trong màu quê cũ

Mà câu đồng thiếp quá ghê người

Bão đời kéo lê qua bão mắt

Ngằn ngặt lệ sâu cơn khóc ai

 

Quê khóc giùm anh hùng mạc vận

Mùa mưa gục ngã ngoài chiến trường

Mảnh hồn tan tác bay về núi

Sống lẩn vào trong nỗi tiếc thương

 

Quê xót giùm thân người con gái

Tháng Ba chết duối ở bên đàng

Chiều rơi một trái hoàng hôn

Tím tím mộ em vùi nông - Phước An

 

Quê tiếc giùm trăm con tình lỡ

Bàn tay cách trở mối tơ hồng

Này năm ba tấm u hờn mỏng

Vất vưởng trôi về đâu trống không

 

Hường rơi một nhánh trong câu hát

Nở trên môi nhỏ đỏ trái tim

Lấp lánh trôi dài theo nhịp phách

Rồi lạc về đâu mù bóng chim

 

Trầm Hương một đóa xanh hồn nhớ

Tóc thả huyền thơm sang nhà ai

Rồi cũng úa em trong hoài niệm

Trầm bay, hương đành chịu phôi phai

 

Mòn tay cố níu ân tình cũ

Mù bay con Yến tới xa xăm

Thủy xa, Phượng cũng thay màu áo

Hiu hắt lòng tôi bóng nguyệt nằm

 

Đi qua đường cũ, thăm nhà cũ

Rêu phong lỡ lói liếm hoen tường

Hoang phế nổi lên mùi ẩm mốc

Lòng ngăn giọt lệ nuốt vào trong

 

Đi qua đường cũ, thăm trường cũ

Cây đa trời đánh chết, không còn

Lối nào dẫn xuống khu Thiết Giáp

Ai dắt giùm lên núi Châu Sơn

 

Đi vô rừng rú, thăm mùa cũ

Đào hư một gốc kỷ niệm xanh

Tập thơ mối đùn cao nấm đất

Đau hoài trang giấy khóc thất thanh

 

Trèo lên cây sấu, cây cơm nguội

Hái xuống ăn cùng trái gió sương

Nhìn lung trên nẻo đời bay bụi

Kẻ còn, người mất, đứa tha hương

 

Khóc mùi một trận đi, quê núi

Vuốt ngực trôi xuôi những nỗi niềm

Trả hết về xưa cho gió xóa

Để hồn ươm vạt nắng vàng im

 

Trèo lên đỉnh dốc Đời sẽ thấy

Một rừng Một núi Một quê hương...

 

Phan Ni Tấn*

*

Phan Ni Tấn sanh năm 1946 tại Banmêthuột. Phụ thân là người Cần Giuộc, trôi dạt ra tới Huế, lập gia đình với cháu ngoại của viên Ngự Y triều Vua Khải Định, sau đó đưa gia đình lên Ban Mê Thuột sinh sống từ năm 1942. Bên ngoại thuộc dòng hoàng phái, bà Cố tổ Ân Phi Hồ Thị Chỉ là vợ chánh thức của vua Khải Định.

Phan Ni Tấn học trung học ở Banmêthuột (1960), Đại học Khoa Học Saigon (1969), và là sinh viên Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (1970). Sau biến cố 1975, ông đi tù cộng sản tại Ban Mê Thuột cho đến năm 1978 thì vượt ngục trốn về Sài Gòn sống đời trôi sông lạc chợ rồi vượt biển đến Thái Lan vào năm 1979, cuối cùng định cư tại Toronto, Canada từ năm 1980. Sau gần 40 năm đi làm cho hãng xưởng, hiện nay ông đã nghỉ hưu nhưng vẫn không ngừng sáng tác.

Phan Ni Tấn sáng tác nhạc và thơ từ trước 1975: thơ có đăng trên tạp chí Văn và Phổ Thông, nhạc phổ biến trong giới học sinh sinh viên miền Nam. Ở hải ngoại, ông tiếp tục sáng tác ca khúc và hợp tác với nhiều tạp chí văn chương tiếng Việt. Ông đã xuất bản nhiều tập nhạc, CD nhạc, thơ, truyện ngắn và tùy bút.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
thượng đế thì xa mà cái ác thì gần ̶ ̶ ̶ / vô vàn cuộc sống bỗng chốc đổi thay mãi mãi / những vấn nạn của bạn và tôi trở nên vô nghĩa...
Chiến tranh và ngục tù là bi kịch đau thương nhất trong lịch sử loài người, nó là kinh nghiệm không được rút tỉa để học hỏi và ngăn chặn, cứ thế lặp đi lặp lại khắp nơi trên thế giới, đánh động mãi ký ức con người nên có thể nói rằng không có cuộc chiến và nhà tù nào trở thành quá khứ, nó luôn là hiện tại với dấu lệ và máu không ngừng chảy. Kinh nghiệm chiến tranh, nhà tù, cùng hệ lụy tang thương của nó như vết cắt hằn sâu trong tâm tư tình cảm con dân Việt nam, mà nhà văn Ngô Thế Vinh đã gọi - vết thương không bao giờ lành-, nó sừng sững ở đó, trên đất đá, trên thân thể, trong tâm hồn, trong sử lịch, mà trái tim và lương tâm con người mãi thúc thủ một câu trả lời.
Cậu bé Hassan 11 tuổi ở miền Đông Ukraine vừa bằng tuổi của Oliver cũng 11 tuổi ở miền Tây Bắc Mỹ
Ôi những bà mẹ mất con/ những người vợ mất chồng/ những người yêu nhau/ đã mất nhau...
buổi chiều/ ở khúc quanh của dòng sông/ có con cò xám khẳng khiu/ cô đơn như con nước lạnh/ nhìn về xa xăm...
Nhìn vào các con số. Vào khởi đầu thập niên 1930s, có 259 nhà văn xuất bản sách trong Liên Bang Xô Viết. Vào cuối thập niên 1930s – chỉ còn 36. Như thế nào 80% các nhà văn đã biến mất? Có 17 người bị bắn, 8 người tự sát, 7 người chết vì lý do tự nhiên, và 175 người bị bắt và giam trong các trại. Và 16 người mất tích. Những con số này cho một ý tưởng về trái độ Liên Bang Xô Viết đối với giới ưu tú văn hóa Ukraine, một thái độ đã áp đặt một kiểu im lặng văn hóa trong nhiều thập niên. Trong thập niên 1960s, một thế hệ mới, trẻ hơn xuất hiện và mang khu vực vào một thời kỳ nghệ thuật chói sáng mới. Nhưng nó cũng sớm lụi tàn: nhà thơ Vasyl Symonenko bị đánh tới chết, họa sĩ Alla Horska và nhà soạn nhạc Volodymyr Ivasiuk chết trong các hoàn cảnh kỳ lạ, và nhiều người khác bị đẩy vào nhà tù, ép vào các bệnh viện tâm thần, và bị cấm xuất bản. Chết độ Xô Viết khởi dậy cuộc chiến chính trị nhắm vào các khuôn mặt văn học Ukraine trong thập niên 1920s và kéo dài tới cuối thập niên 1980s,
bánh mì chúng con ăn hằng ngày chúng con cho người đói / để họ ngừng ăn thịt lẫn nhau / chúng con đem ánh sáng cho kẻ u mê / để họ tìm ra sự sáng suốt /
đêm của pháo kích/ đêm của oanh kích/ đêm của kính vỡ/ đêm của tường lở/ đêm của gạch vụn...
tiếng còi hụ xé nát màn đêm/ đạn pháo nả vào thành phố/ bầu trời rực sáng/ bằng lửa của bạo tàn...
Cảm xúc và nỗi phẫn nộ của hai thi sĩ Việt – Nguyễn Hàn Chung & Trần Mộng Tú – khi nhìn vào thảm cảnh chiến tranh Ukraine hôm nay. Việt Báo trân trọng mời đọc.