quê núi

04/12/202419:04:00(Xem: 2191)

tặng người cùng quê

 

 

channuixanh
tranh Đinh Trường Chinh



Trèo lên đỉnh dốc, đời sẽ thấy

Một rừng. một núi. một quê hương

Thảng thốt kêu bầy, chim ông lão

Than già như cây cội tà dương

 

Quê ngồi dưới gốc buồn thiu thít

Cây tre còn trẻ đã phong trần

Lá bay theo gió mười phương thổi

Tản mạn như người buổi chiến tranh

 

Bùi ngùi quê khóc không thành tiếng

Đất đỏ tràn đi khắp nẻo đường

Nắng bụi mờ trời, mưa lầy đất

Con chó còi nhai miếng thảm thương

 

Gió chướng thổi qua cầu

Mười Bốn Cầu già như một bộ xương khô

Trăng soi lạnh cả vùng sông nước

Mạn ngược xuồng ai cố chống vô

 

Hoa cà phê đắng, hương nồng, ngất

Rỉa rúc vào tim thấm lịm hồn

Ruộng rẫy khuya về rêm tiếng suối

Mõ ốc cầm canh rợn cô thôn

 

Thấp thoáng gì trong màu quê cũ

Mà câu đồng thiếp quá ghê người

Bão đời kéo lê qua bão mắt

Ngằn ngặt lệ sâu cơn khóc ai

 

Quê khóc giùm anh hùng mạc vận

Mùa mưa gục ngã ngoài chiến trường

Mảnh hồn tan tác bay về núi

Sống lẩn vào trong nỗi tiếc thương

 

Quê xót giùm thân người con gái

Tháng Ba chết duối ở bên đàng

Chiều rơi một trái hoàng hôn

Tím tím mộ em vùi nông - Phước An

 

Quê tiếc giùm trăm con tình lỡ

Bàn tay cách trở mối tơ hồng

Này năm ba tấm u hờn mỏng

Vất vưởng trôi về đâu trống không

 

Hường rơi một nhánh trong câu hát

Nở trên môi nhỏ đỏ trái tim

Lấp lánh trôi dài theo nhịp phách

Rồi lạc về đâu mù bóng chim

 

Trầm Hương một đóa xanh hồn nhớ

Tóc thả huyền thơm sang nhà ai

Rồi cũng úa em trong hoài niệm

Trầm bay, hương đành chịu phôi phai

 

Mòn tay cố níu ân tình cũ

Mù bay con Yến tới xa xăm

Thủy xa, Phượng cũng thay màu áo

Hiu hắt lòng tôi bóng nguyệt nằm

 

Đi qua đường cũ, thăm nhà cũ

Rêu phong lỡ lói liếm hoen tường

Hoang phế nổi lên mùi ẩm mốc

Lòng ngăn giọt lệ nuốt vào trong

 

Đi qua đường cũ, thăm trường cũ

Cây đa trời đánh chết, không còn

Lối nào dẫn xuống khu Thiết Giáp

Ai dắt giùm lên núi Châu Sơn

 

Đi vô rừng rú, thăm mùa cũ

Đào hư một gốc kỷ niệm xanh

Tập thơ mối đùn cao nấm đất

Đau hoài trang giấy khóc thất thanh

 

Trèo lên cây sấu, cây cơm nguội

Hái xuống ăn cùng trái gió sương

Nhìn lung trên nẻo đời bay bụi

Kẻ còn, người mất, đứa tha hương

 

Khóc mùi một trận đi, quê núi

Vuốt ngực trôi xuôi những nỗi niềm

Trả hết về xưa cho gió xóa

Để hồn ươm vạt nắng vàng im

 

Trèo lên đỉnh dốc Đời sẽ thấy

Một rừng Một núi Một quê hương...

 

Phan Ni Tấn*

*

Phan Ni Tấn sanh năm 1946 tại Banmêthuột. Phụ thân là người Cần Giuộc, trôi dạt ra tới Huế, lập gia đình với cháu ngoại của viên Ngự Y triều Vua Khải Định, sau đó đưa gia đình lên Ban Mê Thuột sinh sống từ năm 1942. Bên ngoại thuộc dòng hoàng phái, bà Cố tổ Ân Phi Hồ Thị Chỉ là vợ chánh thức của vua Khải Định.

Phan Ni Tấn học trung học ở Banmêthuột (1960), Đại học Khoa Học Saigon (1969), và là sinh viên Sĩ quan Trừ bị Thủ Đức (1970). Sau biến cố 1975, ông đi tù cộng sản tại Ban Mê Thuột cho đến năm 1978 thì vượt ngục trốn về Sài Gòn sống đời trôi sông lạc chợ rồi vượt biển đến Thái Lan vào năm 1979, cuối cùng định cư tại Toronto, Canada từ năm 1980. Sau gần 40 năm đi làm cho hãng xưởng, hiện nay ông đã nghỉ hưu nhưng vẫn không ngừng sáng tác.

Phan Ni Tấn sáng tác nhạc và thơ từ trước 1975: thơ có đăng trên tạp chí Văn và Phổ Thông, nhạc phổ biến trong giới học sinh sinh viên miền Nam. Ở hải ngoại, ông tiếp tục sáng tác ca khúc và hợp tác với nhiều tạp chí văn chương tiếng Việt. Ông đã xuất bản nhiều tập nhạc, CD nhạc, thơ, truyện ngắn và tùy bút.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Valentine ngày rung động/ Đông Tây tìm gặp lại nhau/ hai trái tim thật gần/ hai bờ vai thật yên
Rưng rưng giọt lệ ở ngăn tim/ hoang bóng cơn mưa mùa trái đắng/ sâu hút trên cồn đá màu sương/ vẫn mênh mang một chốn về/ giao kết với thời gian biển lận...
thơ viết lên từng hàng da diết/ như nhánh sông đi qua thành phố/ như cơn mưa rót vào tim người/ngày đầu năm những nỗi nhớ có ai hay …
tôi không thể nào quên được hình ảnh/ hai con khỉ bắt chí rận cho nhau/ qua nhiều tháng năm/ hai con khỉ dần dà lão hóa/ (không thoát khỏi lẽ vô thường) ...
Sáng mùng ba Tết nắng lên tươi/ hương nồng từ biển gió lay mời/ ngoài hiên giò lan tía nở rộ/ lòng ta mở rộng đón đất trời...
Thả lỏng hết canh đời nhức nhối / vành đai nghiệt ngã của thông đồng / cái chết. niềm đau chìm thất lạc / một thoáng tâm thiền nơi ngộ không
thở lên cầu lộng chân mây/ loa xa nhánh nữa cởi vai sông triền / từng say đắm rượu bách niên / cây nhân gian sẽ nhện phiền muộn giăng / bím thư sinh bới lọn mầm / lưới yêu mị chải lệch tâm lược ngà / nhá nhem đóm lội tịch tà / cái hôn ám cũ tách ra giữa vời
Một nhà phê bình văn học ngoại quốc đã nói đại ý: Nếu các nhà thơ hiện đại không có độc giả, họ có thể tạo ra độc giả. Đây thuộc vào phần lớn thi tài của nhà thơ. Để có được một bài thơ ra thơ, nghĩa là, được sinh ra từ cảm xúc thực, có sự mới lạ của chữ và nghĩa, và ít nhất là có nhạc thơ. Thơ hiện đại có khi nghiêng về lý sự mà coi nhẹ cảm xúc. Làm thế nào để một bài thơ triết lý, suy tư, gây được rung động Thơ nơi người đọc? Thơ Nguyên Yên có một gợi mở như thế. Thơ của cô trầm tĩnh, đầy những suy tư triết lý, và táo bạo một cách sáng suốt để không phá đi thẩm mỹ từ của thi ngữ. Cô tôn trọng thi ngữ, cô triết lý bằng cảm xúc thơ (là khi trái tim phỉnh cái đầu… ), và vì vậy dòng thơ hiện đại của cô bật lên được nhạc chữ rất riêng của thơ tự do, đọc lên, có được cảm xúc đọc một bài thơ, cảm được cái mới lạ của chữ, nghĩa, hình ảnh. Suy tư mà vẫn ánh lên nét thơ mộng, lãng mạn, đặc biệt là những bất ngờ ở cuối bài thơ. Đó là những yếu tố mà thơ Nguyên Yên đã chinh phục được người đọ
tôi xòe bàn tay gọi màu vàng / gọi màu cam màu đỏ của ráng chiều. gọi màu xanh của mây trưa. ôm hôn những cánh mỏng phía trên đầu gió / nhưng trái tim tôi không quyền phép bàn tay tôi quá nhỏ / đóa hoa không màu
tháng hai/ ngôi nhà xám có ánh sáng hắt ra/ như ân huệ sót lại của đêm/ người con gái ngồi cạnh bàn hoa/ nhớ trăm điều cổ tích/ ngón tay mân mê/ trên những trang sách cũ già...