Hôm nay,  

Ngắm Bức Tranh ‘Những Ngư Phủ Trên Biển’ Của JMW Turner

8/20/202100:00:00(View: 3653)

JMW Turner
Bức tranh “Ngư Phủ Trên Biển” của JMW Turner được ông vẽ vào năm 1796.  (Photo: Public domain via WikiArt -- nguồn: https://mymodernmet.com


 

Họa sĩ lãng mạn người Anh JMW Turner được biết là người tiên phong của nghệ thuật hiện đại, theo trang mạng https://mymodernmet.com cho biết. Xuất thân từ hội họa tân cổ điển truyền thống, Turner đã bắt đầu phấn đấu cho chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm của ông – mà lúc đó chưa được nghe biết tới. Qua hàng ngàn bức tranh màu nước và sơn dầu, ông đã thử nghiệm ánh sáng, màu sắc, và vẽ cọ. Ông còn vẽ các bức tranh sơn dầu bên ngoài trời, điều mà sau đó ảnh hưởng đến các nhà Ấn Tượng.

Vậy Turner là ai?

JMW Turner self-portrait
Hình tự họa của họa sĩ JMW Turner. (nguồn: https://mymodernmet.com)


Joseph Mallord William Turner sinh tại London, Anh Quốc, vào năm 1775. Ông học tại Trường Nghệ Thuật Hoàng Gia Royal Academy of Arts từ năm 14 tuổi và đã mở phòng triển lãm lúc 29 tuổi. Sống ẩn dật và lập dị, ông hiến trọn cuộc đời mình cho nghệ thuật. Bộ sưu tập của ông gồm 550 bức tranh sơn dầu, 2,000 bức tranh màu nước, và 30,000 họa phẩm trên giấy lúc ông từ trần vào năm 1851.

Khi bắt đầu sự nghiệp của mình, hội họa tân cổ điển - một phong cách được đặc trưng bởi “tính đơn giản quý phái và sự hùng vĩ vắng lặng”  - là thể loại nghệ thuật đang thịnh hành. Theo nguồn cảm hứng này, Turner đã tạo ra những bức tranh địa hình. Cũng giống như các nghệ sĩ khác cùng thời, ông tìm cách miêu tả các chủ đề của mình chính xác và hiện thực theo khả năng có thể. Phương pháp này đối với nghệ thuật là bằng chứng trong các tác phẩm ban đầu của ông, gồm bức tranh “Fishermen at Sea” [Những Ngư Phủ Trên Biển], như được trích đăng ở đây, là bức tranh sơn dầu đầu tiên của ông cho học viện nơi ông theo học. Khi Turner triển lãm bức tranh này vào năm 1796, nó đã được tán thưởng lớn lao, thúc đẩy thêm cho sự nghiệp của một nhà nghệ sĩ của ông.

Sau sự thành công của cuộc triển lãm đầu tiên của ông, Turner đi du lịch khắp lục địa Châu Âu để trau dồi kỹ năng của mình. Ngoài các nghiên cứu chính thức tại Louvre, ông đã tìm thấy sự cảm hứng trong khung cảnh đồng quê của Thụy Sĩ. Khi trở lại Anh, ông đã được cảm hứng rất nhiều bởi bức tranh phong cảnh đến nỗi ông đã bắt đầu vẽ phác thảo bằng sơn dầu trong lúc ở ngoài trời, một kỹ thuật mà sau đó đã được noi theo bởi các Nhà Ấn Tượng.

Cùng trong thời gian đó, ông đã bắt đầu thử nghiệm màu sắc, vẽ cọ, và ngay cả chủ đề.

Sự thay đổi trọng tâm này lên đến tột đỉnh trong những tác phẩm pha trộn các quan điểm tuyệt vời về thiên nhiên với những cái nhìn thoáng qua về việc kỹ nghệ hóa và Chủ Nghĩa Lãng Mạn vô địch, một phong trào bác bỏ những quan điểm truyền thống về hội họa.

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Nhạc sĩ Paul mô tả Watts là “một người thân thương” và là “một tay trống tuyệt vời” là người đã “vững như đá.” Ca nhạc sĩ Elton thì đã viết Twiiter rằng, “Một ngày rất buồn. Charlie Watts là một tay trống lớn nhất. một loại đàn ông sành điệu nhất, và một tập thể sáng rực như thế.” Brian Wilson của nhóm The Beach Boys nói rằng ông bị “sốc” khi nghe tin về Watts, người mà ông miêu tả là “một tay trống vĩ đại.”
Trở lại đề tài Karaoke, “ca ra” thuộc về hát, “ô kê” thuộc về nghe. Có nghĩa, hát và nghe là giao tiếp. Người hát truyền dẫn cảm xúc hay, lôi cuốn, người nghe hưởng ứng nhiệt tình, gây cho người hát gia tăng cảm xúc, thêm hứng khởi, hát tận tình. Trong suốt khoảng thời gian trình bày ca khúc, sự hỗ tương giữa hát và nghe là động cơ làm cho bài trình diễn đó đạt được giá trị cao.
Sài gòn ơi đường phố vắng không người Vào những ngày cơn ác mộng khôn nguôi Tôi muốn nói về một niềm hy vọng Niềm tin yêu và hy vọng đời đời
Nói đến việc tập hát Karaoke, tôi nghĩ, có lẽ không có công việc gì mà một số lớn người Việt có thể tự nguyện tập luyện hăng say như vậy. Thời giờ dùng để tập hát, có lẽ, ngang ngửa với thời giờ xem phim bộ. Say mê. Tưởng tượng. Đi làm về, bật máy lên hát. Ngủ dậy, vừa thay đồ vừa hát lập đi lập lại kẻo quên giai điệu. Tắm hát. Lái xe hát. Vào sở làm, hát lén. Ăn trưa ngồi một mình, hát lẩm bẩm. Tôi có một anh bạn, ngày thường cũng như cuối tuần, ngoài những lúc đi họp hát, lúc nào cũng thấy anh ngồi thẳng thóm nơi ghế sa lông dài, nhìn chăm chăm vào máy truyền hình, miệng hát và tự làm duyên một mình, tay đưa lên diễn tả như đang đứng trên sân khấu. Vợ anh ta than phiền, Ổng không làm gì hết. Tối ngày ngồi một chỗ hát đến nổi lủng luôn ghế da. Năm xưa, vợ chờ chồng đi chinh chiến đến nổi hóa đá. Nay, vợ chờ chồng ca hát, lạnh lẽo gối giường. Khuya khoắt mới chịu vào ngủ. Bạn tôi đến nay đã thành ca sĩ đối với một số thân hữu có giới hạn.
Sài Gòn đại dịch, những con đường vắng ngắt, những con hẻm buồn tênh, những mặt người sầu lo. Quán xá hoang vu, chợ búa im lìm, thành phố phong tỏa rồi. Dòng người nghẹn ngào, lìa xa thành phố, tìm đường về quê, nương náu với người thân, ước mong trở lại khi dịch cúm không còn. Nhưng anh còn em, đôi ta còn nhau, ta yêu Sài Gòn bao mùa mưa nắng, ta thương Sài Gòn năm tháng vẫn hiên ngang. Vững tin quê hương lướt qua cơn đại dịch.
Có một sự kiện rất lý thú là trong Kinh Phật kể chuyện một hôm, lúc Đức Phật còn tại thế, các nhạc thần Càn Thát Bà (Gandharva) đã đến chỗ Đức Phật và tấu nhạc để cúng dường Ngài và Đại Chúng. Nhạc của những nhạc thần này hay và sống động đến độ nhiều vị đệ tử của đức Phật cũng bị lôi cuốn và đứng dậy nhảy múa theo tiếng nhạc dù chỉ là giây lát. Sự việc này cho thấy rằng từ thời Đức Phật vào thế kỷ thứ 6 trước tây lịch âm nhạc đã xuất hiện trong các pháp hội, các sinh hoạt của thất chúng đệ tử Phật.
Hiro đã bị trầm cảm không chỉ vì chứng bệnh của ông, mà cũng vì sự gia tăng bạo động chống lại người Á Châu và sự bất an và nổi dậy liên quan đến bầu cử. Tên cuộc triển lãm của ông hiện nay tại The Box ở Los Angeles là “Armor,” gói gém ước muốn của ông để chống lại sự bất an đó qua tự phản ảnh nghệ thuật.
Anh bạn thi sĩ, Nguyễn Bá Trạc, cho tôi một lời khuyên, khi mới vừa bước chân vào xóm văn chương. Anh nói: -“Ai khen mình, dù không đúng, cũng vui. Nếu khen đúng, lại càng vui hơn. Ai chê mình, dù không đúng, cũng buồn. Nếu chê đúng, lại càng buồn hơn.” Thật là chí lí. Tôi có hàng trăm kinh nghiệm về chuyện này. Trong các loại chê, lời vợ chê là đau đớn nhất, lưu trữ lâu dài nhất, thông thường là đúng nhất. Nếu biết sửa đổi những gì vợ chê, những người đàn ông đó đều trở thành thiên tài. Còn lời vợ khen thì sao? Đề phòng, sắp tốn tiền.
What the Horse Eats, tựa đề tiếng Việt là Trong Bụng Ngựa, là vở opera kể một câu chuyện có thật xảy ra thời Nhật chiếm đóng Việt Nam năm 1945. Ở những làng quê miền Bắc, những cái xác trơ xương nằm vất vưởng ngoài đường. Người ta, cũng là những bộ xương còn sống còn đi được, gom xác chết chất lên xe cun cút đem chôn tập thể. Cả làng tiêu điều như thành phố ma. Hơn hai triệu người Việt Nam đã chết đói. Dân số vào thời đó là 18 triệu. Chiến tranh, nạn đói, chế độ thực dân dồn ép con người ta phải lựa chọn giữa sự sống và cái chết, giữa danh dự và tình thương cho con. Một anh chăn ngựa lo lắng cho gia đình, đặc biệt là đứa con mới chào đời. Anh phải nhận lời làm không công cho viên Đại Uý Nhật, chăm nom con Ngựa Trắng quý của ông ta, cùng lúc anh mang trong đầu một tính toán táo bạo. Người vợ của anh thì đang vật lộn với trách nhiệm và tình thương của người mẹ, chỉ biết gắng gượng nuốt rễ cây. Hai vợ chồng cố gắng sống mòn trong danh dự. Cuối cùng, cùng đường, họ đành chấp nhận
Trầm Tử Thiêng đã hiến trọn một đời cho âm nhạc, ông được hàng triệu người thương yêu mến mộ. Kho tàng nghệ thuật của ông là 200 ca khúc tình yêu, thân phận, quê hương và chiến chinh. Hành trình sáng tác cũng như tác phẩm của Trầm Tử Thiêng gắn liền với thời cuộc của đất nước và mối tình của chính cuộc đời ông…
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.