Hôm nay,  

Nguyễn Vỹ (1912- 1971) & Nam Thu Hòa Khúc

27/09/202400:00:00(Xem: 3076)

Nam Thu Hoa Khuc
 
Nhà thơ, nhà báo, nhà văn Nguyễn Vỹ, quê làng Tân Hội, quận Đức Phổ, tỉnh Quảng Ngãi. Từ cố hương, ông dấn thân vào nghiệp cầm bút mà trong bài thơ tráo phúng của ông:

“Thời thế bây giờ vẫn thấy khó
Nhà văn An Nam khổ như chó
Mỗi lần cầm bút nói văn chương
Nhìn đàn chó đói gặm trơ xương
Và nhìn chúng mình hì hục viết
Suốt mấy năm giời: kiết vẫn kiết”!

Tuy than thở như vậy nhưng Nguyễn Vỹ theo cái nghiệp trong suốt bốn thập niên.

Sau khi tốt nghiệp tiểu học ở quê, lên trung học Pháp-Việt ở Quy Nhơn (1924-1927), tham gia bãi khóa để tang nhà cách mạng Phan Châu Trinh nên bị đuổi học, phải ra Hà Nội học tiếp. Sau khi đậu tú tài toàn phần, Nguyễn Vỹ dạy học tại trường trung học Thăng Long, Hà Nội. Vừa dạy học, vừa làm thơ, viết văn, viết báo... Nguyễn Vỹ là tên thật, các bút hiệu khác: Tân Phong, Tân Trí, Lệ Chi, Cô Diệu Huyền.

Cuộc đời ông trải qua nhiều sóng gió và nghiệt ngã nhất với nghề báo.

Nguyễn Vỹ cộng tác với nhiều tờ báo lớn bấy giờ như: Tiếng Dân (Huế), tuần báo Đông Tây, Văn Học tạp chí ra ngày 1/12/1936 (tiền thân của Phổ Thông bán nguyệt san), tuần báo Phụ Nữ, L'Ami du Peuple, La Patrie Annamite... Năm 1937, Nguyễn Vỹ ra đời tuần báo Le Cygne, đả kích chính sách thực dân Pháp, nên chỉ phát hành được 6 số thì báo bị đóng cửa, bị tòa án Pháp ở Hà Nội kết án tù 6 tháng và đóng phạt 3.000 đồng.

Sau khi chiếm Đông Dương, năm 1942 Nhật bắt giam ông ở ngục Trà Khê (Quảng Ngãi), sau đó đày ông đến Củng Sơn (Phú Yên), sau khi Nhật thất trận, đầu hàng Đồng minh, Nguyễn Vỹ mới được trả tự do. Ra khỏi tù, Nguyễn Vỹ về quê Quảng Ngãi sống một thời gian.

Năm 1946, Nguyễn Vỹ vào Sài Gòn sáng lập nhật báo Tổ Quốc, đả kích chính sách thực dân, nên bị đóng cửa! Năm 1948, Nguyễn Vỹ lên Đà Lạt lập tuần báo Dân Chủ cũng bị chính quyền rút giấy phép!

Năm 1952, Nguyễn Vỹ lại về Sài Gòn sáng lập nhật báo Dân Ta, nhưng chưa được một năm thì bị đóng cửa. Năm 1958, Nguyễn Vỹ sáng lập bán nguyệt san Phổ Thông, làm chủ nhiệm kiêm chủ bút cho đến khi mất trong tai nạn giao thông cuối năm 1971.

Tác phẩm tiêu biểu:

Văn: Đứa Con Hoang (tiểu thuyết) Hà Nội, 1936. Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn) Hà Nội, 1937. Chiếc Bóng (tiểu thuyết), Hà Nội 1941. Chiếc Áo Cưới Màu Hồng (tiểu thuyết), Sài Gòn 1957. Giây Bí Rợ (tiểu thuyết), Sài Gòn 1957. Hai Thiêng Liêng I & Hai Thiêng Liêng II (tiểu thuyết), Sài Gòn 1957, Mồ Hôi Nước Mắt (tiểu thuyết), Sài Gòn 1965. Văn Thi Sĩ Tiền Chiến (ký ức văn học), Nhà xuất bản Khai Trí, Sài Gòn, 1970…


Tuấn, Chàng Trai Nước Việt I & Tuấn, Chàng Trai Nước Việt II, Sài Gòn, 1970. Đây là biên niên sử của đất nước nửa đầu thế kỷ XX. Ông có trí nhớ rất tốt để ghi lại từng chi tiết xảy ra trong giai đoạn lịch sử.

Thơ: Tập Thơ Đầu - Premières Poésies (thơ Việt và Pháp), Hà Nội, 1934. Hoang Vu (thơ) Sài Gòn 1962, Buồn Muốn Khóc Lên (thơ), Sài Gòn 1970…
Cuộc đời làm báo của Nguyễn Vỹ “ba chìm bảy nổi” nên luôn luôn nghèo vẫn ở nhà thuê (vợ ông làm hiệu trưởng trường mẫu giáo Trí Hương ở Đà Lạt) thế nhưng ông từ chối nhận giải nhất Giải Thưởng Văn Chương Toàn Quốc thời Đệ Nhất Cộng Hòa cho bộ tiểu thuyết Hai Thiêng Liêng hiện kim lúc đó khoảng 60 ngàn đồng. Nguồn tin cho rằng ông là nhà hảo tâm, làm báo được đồng nào ông đều trợ cấp cho những học sinh, sinh viên nghèo. Mỗi mùa mưa bão miền Trung, ông lại cùng bạn trẻ ở các thi văn đoàn Thằng Bờm đi huy động quyên góp từng lon gạo, từng chiếc áo cũ để mang về trợ giúp bà con miền Trung.

Chuyến đi cuối cùng của ông là về Cần Thơ thăm người bạn. Trên đường về ghé Bến Tre thăm người bạn thân thiết là ông Đạo Dừa (Nguyễn Thành Nam). Khi về tới địa phận Long An thì bị tai nạn. Đó là ngày 4/2/1971.

Tang lễ nhà thơ, nhà báo, nhà văn Nguyễn Vỹ được tổ chức tại chùa Xá Lợi (Sài Gòn) và được an táng tại Nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Năm 1983, nghĩa trang di dời để làm công viên, di cốt nhà thơ được hỏa táng đưa về chùa Giác Ngạn.

Thời học sinh, tôi thích tờ Phổ Thông tạp chí, Giám Đốc, Chủ Bút: Nguyễn Vỹ, số I ngày 1/11/1958. Vào năm 1960 mục Đáp Bạn Bốn Phương của Diệu Huyền rất ăn khách. Sau nầy Nguyễn Vỹ sáng tác Thơ Lên Ruột ký bút hiệu Diệu Huyền, và mục “Mình Ơi…” ký tên Cô Diệu Huyền đủ chuyện trên trời dưới đát, Đông Tây, kim cổ rất thú vị. Tác phẩm Tuấn, Chàng Trai Nước Việt của Nguyễn Vỹ từ bản thân ông trải qua thăng trầm của bản thân và lịch sử qua hình ảnh Tuấn.

Mùa Thu California bắt đầu, nhân bài thơ Nam Thu Hòa Khúc của nhà thơ Nguyễn Vỹ, tôi viết đôi dòng về ông để tưởng nhớ đến người đã an giấc nghìn thu.

Little Saigon, September 2024
Vương Trùng Dương
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nói đến âm nhạc, người ta thường liên tưởng đến khái niệm về “tâm hồn” hay “cảm xúc”. Khi nói đến giáo dục lại thường liên kết với “trí tuệ”. Một bên là nghệ thuật, một bên là tri thức. Một bên là những chàng nghệ sĩ, một bên là những nhà mô phạm. Thực ra hai lĩnh vực này có nhiều khi đan lẫn, kết hợp với nhau. Âm nhạc là một ngành học với học vị lên tới tiến sĩ, không thua kém gì học bác sĩ, kỹ sư. Và khoa học đã chứng minh từ lâu rằng học âm nhạc góp phần phát triển khả năng trí tuệ toàn diện cho trẻ em.
Cuốn phim Từ Sài Gòn đến Điện biên Phủ cũng được ra mắt lần đầu tiên tại Hoa Kỳ. Phim do hãng Mỹ Vân hoàn tất tại Việt Nam trước 1975. Chưa từng chiếu được giữ lại trên 50 năm qua sẽ ra mắt đồng bào rất may mắn tại San Jose. Xin mời đến để gặp Kiều Chinh và Sài Gòn sau hơn nửa thế kỷ. Vào 1 giờ chiều thứ bẩy 27 tháng 7-2024 tại hội trường Santa Clara County
Vào chiều Chủ Nhật cuối Tháng Sáu, khoảng hơn 400 khán giả đã ngồi chật khán phòng của Huntington Beach Central Library Theater để cổ vũ cho các tài năng âm nhạc trẻ gốc Việt trong chương trình nhạc Emê Concert 2, chủ đề “I Wish It So”.
Thỉnh thoảng có một ngày vui. Gặp nhau trong thân tình, được bày lộ nỗi lòng, nâng ly rượu giao hòa. Đó là buổi ra mắt tập thơ của Họa sĩ Khánh Trường. Chiều, của một ngày cuối cùng tháng Sáu, 2024. Trời Nam Cali mát dịu. Tôi và Kim đến rất đúng giờ nhưng phòng họp đã đầy chật bằng hữu. Tấm lòng yêu mến Khánh Trường quả là rõ thực. Tay này đa tài trên khắp nẻo, hội họa, văn chương, báo chí, cả ngang tàng một cõi thời trai trẻ. Bỗng đủ thứ bệnh tật đến rần rần như rủ nhau đi xem hội. Trên hai mươi năm nay ung thư thanh quản, hộc máu, tắt tiếng, đột quỵ, ngồi xe lăn, bại thận, mỗi tuần bị lụi kim, kim bự tổ chảng, vào người thay máu hai lần. Nhìn hai cổ/ cánh tay của Khánh Trường, từng đụn da thịt gồ lên thấp xuống, như cái dãy… Trường sơn thu nhỏ.
Nhà thơ Đỗ Quý Toàn nói về Khánh Trường-nhà thơ đã không quên nhắc lại “Khánh Trường là người làm được rất nhiều thứ, không những ông là họa sĩ, nhà thơ, mà ông viết văn rất hay. Tôi rất thích đọc truyện Khánh Trường. Nhưng điều tôi phục nhất là Khánh Trường của Hợp Lưu. Khánh Trường của nguyên tắc làm theo ý mình, trái ý thiên hạ. Người ta cho là anh ta phản kháng hay nổi loạn, nhưng theo tôi, KT chỉ làm cái gì mình cho là đúng, hay, phải làm. Tôi rất khâm phục.”
Ca khúc “Nỗi buồn hoa phượng” là ca khúc thứ hai của nhạc sĩ Thanh Sơn, sau ca khúc “ Tình học sinh” ra đời năm 1962, song bị... chìm lĩm, chẳng một ai chú ý? Năm 1983, trả lời phỏng vấn của chương trình Paris By Night, nhạc sĩ Thanh Sơn kể về sự ra đời của ca khúc “Nỗi buồn hoa phượng”, sau 20 năm ra đời, đã được hàng triệu người kể cả miền Bắc sau này ưa thích. Đó là vào năm 1953, ông học chung lớp với người bạn nữ tên là “Nguyễn Thị Hoa Phượng”, hè năm ấy, người bạn gái cùng gia đình chuyển về Sài Gòn, ông có hỏi cô bạn: “Nếu nhớ nhau mình sẽ làm sao?”, cô bạn mĩm cười trả lời đại ý là “ Cứ mỗi năm đến hè, nhớ đến nhau, anh cứ nhìn hoa phượng nở cho đỡ nhớ bởi tên em là Hoa Phượng...”, và đó cũng là “đề tài” mà ông ấp ủ để 10 năm sau, khi đó cô bạn gái ngày xưa chắc đã... vu qui rồi?
Không thể chối cãi, trong đầm không gì đẹp bằng sen. Đúng hơn nữa, trong đầm không gì thơm hơn sen. Nhưng vì sao sen lại mọc trong đầm bùn? Vì sao sen không mọc sánh vai cùng Cẩm Chướng, Mẫu Đơn, Hồng Nhung, Anh Đào, Thiên Điểu, Oải Hương, Hướng Dương, vân vân trong những vườn quyền quý cao sang, những nơi chưng bày lộng lẫy? Vì sao sen lại chọn ngâm mình trong nước hôi tanh? Vì sao trong tất cả loại sen, tôi lại quý sen hồng, trong khi đa số yêu sen trắng? Sen và bùn là một lý thuyết chính trị cần thiết cho Việt Nam hiện nay. Hoa sen phải mọc từ bùn, trong bùn. Không thể mọc ở những nơi không có bùn. Vì sao hoa sạch thơm phải mọc và sống từ nơi dơ thúi? Rồi sen phải vượt lên khỏi mặt nước mới nở được hoa đẹp, hoa thơm, nhưng vẫn cần có bùn để tồn tại. Một quá trình hiện thực, một ẩn dụ để tư duy.
Bộ phim Face Off 7: One Wish như đem lại một tín hiệu tốt lành rằng trong một xã hội Việt Nam ngày nay đang có quá nhiều điều nhiễu nhương, những nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt Nam vẫn còn có chỗ để tồn tại…
Hồi nhỏ, tôi thường nghe cha tôi đọc hai câu ca dao này: “Còn cha gót đỏ như son, đến khi cha chết gót con đen sì.” Lúc ấy tôi chừng năm bảy tuổi, nên nghe rồi thuộc lòng mà không hiểu hết ý nghĩa, chỉ biết hời hợt là nếu cha chết thì mình sẽ khổ lắm! Nhưng ngay cả khổ ra sao thì cũng chẳng hình dung được. Câu ca dao nói trên cho thấy truyền thống ngày xưa, người cha đóng vai trò then chốt trong gia đình. Ông vừa là trụ cột kinh tế để nuôi gia đình, vừa là tấm gương đức hạnh để cho con cái noi theo. Đặc biệt là với truyền thống phụ hệ con cái mang họ cha, nên việc “nối dõi tông đường” đặt lên vai người con trai, hay người đàn ông. Đó có thể là yếu tố cấu thành quan niệm “trọng nam khinh nữ” ngày xưa tại các nước theo phụ hệ như Việt Nam, Trung Hoa, v.v…
Tháng 3/2022, Bến Bạch Đằng Saigon bị đổi tên thành “Ga Tàu Thủy Bạch Đằng”. Sự kiện này đã dẫn đến những tranh luận trong dân gian chung quanh đề tài: Ngôn ngữ Hà Nội (ngôn ngữ miền Bắc) đang làm mờ dần sắc thái đặc biệt của ngôn ngữ miền Nam Việt Nam...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.