Hôm nay,  

Nhà Văn Lưu Na Ấn Hành Tập Truyện “Gập Ghềnh”

30/12/201908:58:00(Xem: 5979)

blank

  

Nhà Văn Lưu Na Ấn Hành Tập Truyện “Gập Ghềnh”
 
Phan Tấn Hải

 

Tủ Sách T.Vấn & Bạn Hữu trong năm 2017 đã phát hành tập truyện ngắn "Gập Ghềnh" của nhà văn Lưu Na.

  

Nơi trang đầu, trước khi vào truyện, nhà văn Lưu Na viết những dòng chữ đẩy cảm xúc về nghĩa "gập ghềnh" trong truyện và trong đời tác giả, trích:

 

Ví dầu cầu ván đóng đinh

Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi

Khó đi mẹ dắt con đi

Con đi trường học mẹ đi trường đời

 Tôi vào đời, một cuộc đời rất xa lạ,  không có má dắt tay.  Trên đất lành “không thấy phố không thấy nhà chỉ thấy mưa sa…”, tôi bước một mình chông chênh như qua cầu khỉ trên biển sóng dập dềnh lòng mang mối hận không còn thấy lại má.  Rồi như một phép lạ, tôi đã trở về bước lại trên con đường xưa nghe mặt đất ấm bàn chân lưu lạc.  Mà buồn sao phố xá nguy nga không còn bóng mưa sa, và lòng cứ bập bềnh tiếng sóng.  Tôi đi, tôi về, không còn biết đâu là điểm khởi hành.  Bước buồn tôi vẫn bước, nhưng mỗi chân mỗi quê – “quê nhà quê người”, chỉ là những bước gập ghềnh.

Lưu Na

.

Những dòng trên đã mở ra một cuốn sách như dường một thế giới văn chương khác của Lưu Na, nếu độc giả so sánh với một tác giả Lưu Na của tác phẩm "Lênh Đênh"…

Từ một Lưu Na với những dòng chữ rất mực đau đớn trong tiểu thuyết "Lênh Đênh" khi kể về thân phận người phụ nữ Việt:

 

"Ngà biết từ đây cho đến chết Ngà sẽ không bao giờ trả lời câu hỏi mà tất cả những ai đi vượt biên đều hoặc hỏi thầm hoặc thốt thành câu: có “bị” hải tặc. Nói có là dối mà nói không có tội, tội với Phượng, tội với tất cả những người phụ nữ không may. Tự bao giờ cái may mắn của một vài cá nhân trở nên tội với những người thọ nạn? Người con gái Việt Nam da vàng, tất cả những người phụ nữ vượt biên -- vết chàm đã khắc, màu chàm đã nhuộm, và anh Tuấn, tất cả những Tuấn chàng trai nước Việt, có còn cách nào khác hơn là chúng ta phải xa nhau, để ở mỗi phương trời cách biệt may ra còn có thể sống tiếp. Đêm vẫn trong, chỉ hồn mình đục. Đảo tị nạn không chỉ xóa lối về mà tẩy trắng luôn những tờ hồn trắng, để lại những vết gôm nham nhở xám buồn...." (Trang 88, Lênh Đênh)

 

tới những dòng chữ rất mực thơ mộng ngay từ những dòng đầu của truyện ngắn đầu tiên, truyện nhan đề "Giã Từ Đường Sơn Cúc" nơi trang 6 trong tập "Gập Ghềnh" -- trích:

 

Ông ạ,

Cuối cùng em đã về lại đường Sơn Cúc.

Mấy mươi năm rồi em vẫn không nguôi nhớ con đường ấy, con đường hẹp nhìn ra cả một không gian bát ngát hương trời. Ông có biết nơi em ở cũng có con đường Sơn Cúc. Em đã nhất quyết về ở nơi đây vì con đường hẹp theo triền đồi với đầy hoa cúc ấy. Mỗi sáng em cũng lần dò lên đồi, đi dọc theo con đường hẹp giữa muôn hoa vàng đang từ từ bừng nở. Nơi đó em cũng có thể nhìn xuống biển xa dưới chân đồi, với luồng xe cộ uốn quanh bãi cát. Không đâu ông ạ, nơi đây dù thanh vắng nhưng thật là rực rỡ, không đơn sơ nghèo nàn và cũng không có được mùi hương cũ. Em không sao tìm lại được cái mùi nắng khan trong gió ấm, chút bụi chút hương chút hơi đất mờ mờ trong nắng vàng khô.” (Trang 6, "Giã Từ Đường Sơn Cúc" trong tập truyện ngắn "Gập Ghềnh".)

 

Đó là những dòng chữ rất mực thơ mộng ngay từ nơi dấu phết, dấu chấm. Khi bạn đọc rất chậm những dòng chữ trong truyện, một làn sương lạnh như phả lên từ tráng giấy. Đó là hơi văn độc đáo của Lưu Na.
 

Có một suy nghĩ dễ dàng khởi lên trong tâm độc giả: có phải nhân vật tên Mây là hiện thân của tác giả Lưu Na trong suốt tập truyện “Gập Ghềnh” đầy những gian nan, đau đớn và thơ mộng?

 

Bạn đã từng ra đời tại Sài Gòn? Hay bạn đã từ những nơi khác về học và trưởng thành ở Sài Gòn? Hay bạn đã từ những nơi khác về Sài Gòn để tìm việc, để gặp những người tình, đã hứng những cơn mưa nắng bật chợt trên đường phố Sài Gòn nơi thời tiết bất thường như các cô gái “sang chảnh” dễ thương nhưng khó tính? Thế rồi khi bạn đi xa, khi rời thật xa Sài Gòn, sẽ có lúc bạn nhớ tới và khóc.
 

Có những trang văn của Lưu Na có thể làm bạn khóc vì nhớ một quê hương trong đó, Sài Gòn là một ký ức in sâu vào thịt da xương tủy. Nơi đó, người tình là một hình ảnh quyện sâu vào quê hương và trở thành một với Sài Gòn.

 

Xin mời đọc một trích đoạn truyện ngắn “Khi Xa Sài Gòn” của Lưu Na như sau:

 “Mây nhớ những năm tháng xưa kia, những khi Mây đang yêu một người thì hình như chưa bao giờ Mây có câu trả lời dứt khoát rằng mình có yêu ngƣời và ngƣời có yêu mình. Chỉ khi đã thực xa, thực là chẳng có nhau, khi nhớ lại quãng đời đó thì Mây mới có thể minh định loại tình cảm quan hệ đó là gì, và có khi nó vẫn là một câu hỏi mở ngõ. Tình yêu, nó giống nhƣ quê hƣơng. Những khi mình sống trong nó với nó mình không bao giờ ý thức đƣợc nó, ý thức nó trở thành mình nhƣ thế nào. Xa rồi, khi nhớ về quê hƣơng Mây thƣờng nhớ về những cảm xúc kỷ niệm nơi chốn con ngƣời mà Mây có mặt tham dự hay Mây là nhân vật chính. Rồi Mây trở thành ngƣời ấy, kẻ xa lạ ấy_là Mây bây giờ ở một nơi nào khác. Và rồi Mây không thấy cái đất nước mà Mây đã sống 30 năm nay là quê hƣơng. Mây cho rằng quê hƣơng là miền đất nơi tâm trí và thực thể ngƣời ta được hình thành, cho đến khi ngƣời ta phải xa nó, phải chuyển qua một tâm trí khác, một thực thể con ngƣời khác. Còn sống trong nó thì nó chƣa là quê hƣơng, và xa nó rồi thì nó sẽ có bộ mặt của bất cứ cái gì bất cứ nơi nào mà tâm trí cõi lòng mình hòa nhập đƣợc khi đến nơi chốn ấy. Nhƣ cái góc phố Chợ Lớn ở Mã Lai, như ruộng lúa Cao Bằng, nhƣ con bò nằm nhơi cỏ sau rào kẽm gai ở Kontum, nhƣ chậu nƣớc rửa bát của ngƣời bán quà rong. Quê hƣơng, nó là chốn mình thƣơng nhớ nghĩ về, và khi mình nghĩ đến hai chữ quê hƣơng, nó luôn bao gồm một cái tôi quá khứ, rõ mặt hay chỉ là một bóng âm thầm quan sát chung quanh. Quê hƣơng phải chăng là dĩ vãng hình thành của một người?” (Trang 77, truyện ngắn “Khi Xa Sài Gòn” trong “Gập Ghềnh”.)

 

Tất cả những chữ, những câu, những đoạn trong truyện Lưu Na đều đặc chất Sài Gòn. Đọc văn là hình dung được giọng nói -- đó là một giọng nói rất mực con gái Sài Gòn, hồn nhiên ngay cả khi đau đớn, dịu dàng ngay cả trong thua cuộc nơi đời thường. Nơi đó, hình ảnh những người đàn anh trong cuộc chiến trước 1975 không bao giờ phai mờ trong tâm tưởng: họ có thể đã trở về với đất, hay vẫn đang lưu vong gian nan, nhưng vẫn là những tượng đài rất mực cao vời trong đôi mắt các thiếu nữ Sài Gòn.

 

Chúng ta có thể thấy ngôn ngữ văn này trong truyện "Cuối Dốc Yêu Người" của Lưu Na, trích:

Đại ca đại ca. Tử biệt sinh ly em không có phần, biết rồi, nhƣng em thƣơng anh phận đời đơn bạc, dày dạn chiến trƣờng nơi sống chết của mình và của người chỉ như gió thoảng như giấc mơ. Phải chăng em đã hết lòng với anh vì một biểu tượng? Nhớ năm ngoái ngày 30/4 em đang làm việc trong sở nghe radio bằng head phone. Xướng ngôn viên cũng hơn 60 rồi, mà ông thì nghẹn lời và bà thì nức nở. Còn em, nƣớc mắt cũng tuôn tràn mà em vừa khóc vừa cƣời cho cái sự vô duyên của mình. Một người có thể nói cả tràng 10 phút không lấy hơi, đọc quảng cáo không ngắt câu người nghe không kịp thở mà đã nghẹn lời; một nữ chúa sơn lâm khi cất tiếng anh hùng cúi mặt mà đã gầm tiếng không âm vang. Giọt nước mắt nào của em đủ thấm cho những bóng người đã ngã xuống vì đất nước, vì mình… “Hỡi ơi, giờ đây không nói nên lời…” Và em đã ước sao cho mình nói đƣợc tiếng yêu người.” (Trang 185-186, truyện "Cuối Dốc Yêu Người" trong tập “Gập Ghềnh”.)
 

Truyện Lưu Na hiển lộ một định mệnh của rất nhiều người. Nơi đó, cho dù chúng ta rời xa ngàn dặm sau nhiều thập niên, quê hương là hình ảnh không dứt bỏ được, trong đó có tiếng cười của người mẹ, có đùa nghịch với các bạn học thời ôm sách đến trường, có tình yêu sương khói bất chợt, có những hình ảnh khốn khổ đói nghèo từ các góc phố và góc chợ, và có những người cựu chiến binh VNCH lặng lẽ sống vất vả với đau thương sau thời gian tù cải tạo… Thơ mộng và đau đớn.

 

Độc giả có thể đọc bản PDF của tập truyện ngắn “Gập Ghềnh” nơi đây:

https://t-van.net/?p=32852

 
Trân trọng cảm ơn nhà văn Lưu Na đã có những dòng chữ làm lay động tận sâu các góc thương đau của những người con Sài Gòn – nơi tôi đã sinh ra và chia sẻ một phận chung của đất nước.

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ lúc nhận sách đem về nhà, trong đầu tôi dường như có cái gì đó còn vướng vướng. Cầm cuốn sách, lật qua lật lại, lật tới lật lui. Vẫn chưa mở sách ra để đọc. Bổng nhiên mắt tôi dừng lại ở cái tựa đề sách “Gặp Gỡ Với Định Mệnh.” À, thì ra chính cái tựa đề này làm cho mình bị khựng lại. Rồi tôi thắc mắc về tựa đề cuốn sách “Gặp Gỡ Với Định Mệnh.” Định mệnh là định mệnh gì? Định mệnh của ai, của dịch giả họ Trịnh hay của tác giả bài văn tuyển dịch, hay của tất cả mọi người? Tôi có nằm trong cái định mệnh đó? Có cái gì đó tương quan tương duyên giữa “định mệnh” trong cuốn sách ngày xưa với “định mệnh” bất ổn của xã hội ngày nay? Chính những thắc mắc đó đã xô đẩy tôi bước vào cuốn sách và đi tìm câu trả lời. Tìm trong mục lục, tôi thấy có bài “Gặp Gỡ Với Định Mệnh” của nhà văn người Mỹ Philip Roth. Tôi vội vàng lật qua trang 47. Và tôi bắt đầu đọc một mạch không ngừng cho đến hết. Dịch giả Trịnh Y Thư rất tử tế, anh đã giới thiệu một cách trang trọng tác giả
“Chúng ta đến xứ sở này xa lạ / ra đi chưa hết lạ / nhưng không bao giờ thôi yêu mến / mặt hồ đại dương / căn nhà chở che hạnh phúc / lối mòn nhỏ ven rừng con ta bước tiên khởi tự do. / Đây là nơi chúng ta hàn gắn mình / Như thợ giày khâu vết thương há miệng / Sau đường dài ngập máu / sau đường dài ngập phân / sau chợ chiều cân xác chết chiến tranh / một triệu tiếng chuông không mua hết oan hồn. / Đây là nơi chúng ta sống đàng hoàng / và chết vào buổi chiều có cánh / bay về một xứ sở đã xa.
Qua cuốn sách này, Kissinger tổng kết những trải nghiệm phong phú qua hơn sáu thập kỷ trong chính trường thế giới. Là một người theo trường phái Hiện thực cực đoan (Hard-core Realist) trong lý thuyết Bang giao Quốc tế, ông đã phân tích theo khảo hướng lịch sử một cách xuất sắc về hệ thống chính trị châu Âu, các nước theo Hồi giáo, Trung Quốc và Mỹ, nhưng không đề cập đến sự phát triển tại châu Mỹ La tinh. Ông kết luận rằng có một hình thái mới trong quan hệ các siêu cường, nó dựa trên hệ thống theo Hoà ước Westphalen, sự cân bằng quyền lực trên toàn cầu và các nguyên tắc không can thiệp, tất cả sẽ là một mệnh lệnh chung cho việc xây dựng trật tự thế giới ngày nay. Tuy nhiên, nhìn chung, Kissinger không thể cung cấp các giải pháp khả thi hay bước đầu hữu ích. Có nhiều lý do để phản luận Kissinger mà bài điểm sách sau đây sẽ đề cập.
Ba mươi tháng Tư năm 1975 là dấu thời gian của những đổi đời, của vinh quang cùng đau khổ. Nhiều câu chuyện đã được kể lại, nhiều hồi ức đã viết về đất nước với chiến tranh quốc cộng và hệ lụy kéo dài. “Cha Vô Danh” [Nxb. L’Harmattan, France 2019, 532 trang] của Phạm Ngọc Lân ghi lại biết bao đổi thay, thăng trầm của đất nước, nhưng có những nét riêng vì trải dài gần ba phần tư thế kỷ từ đầu thập niên 1940 cho đến năm 2015 và qua những nơi ít được nhắc đến như Ba Bình, Lạng Sơn, Bảo Lộc, Vincennes, Toulon, Fréjus, Nouméa.
Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987) là một trong những đạo sư Tây Tạng đầu tiên mang Phật Pháp đến phương Tây. Năm 1963 được học bổng để du học tại Đại Học Oxford. Năm 1967 sau khi tốt nghiệp Ngài thành lập Trung Tâm Thiền Samaye-Ling tại Scotland với phương pháp thiền áp dụng vào đời sống hàng ngày.
Cuộc đời của Nữ Thiền sư Dipa Ma đã được tác giả Amy Schmidt đem vào tác phẩm “Knee Deep in Grace, The extraordinary Life and Teaching of Dipa Ma”. Sau đó, Tác phẩm nầy được bổ túc thêm để trở thành tác phẩm mang tên “Dipa Ma, The Life and Legacy of a Buddhist Master”. Dipa Ma (1911- 1989) ra đời tại Chittagong, một làng nhỏ nằm về phía Đông xứ Bengal (ngày nay là Bengladesh). Lúc dó Bà mang tên là Nani Bala Barua chớ chưa phải là Dipa Ma.
Bên cạnh mười bài giảng của Thầy Phước Tịnh là mười bài Thiền Ca Chăn Trâu được kẻ nhạc do nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc sáng tác, dựa theo thơ Thầy Tuệ Sỹ. Sách in trên giấy đẹp, khổ vuông 8.5X8.5 inches, dày 90 trang. Sách “Mõ Trâu” do Tâm Nguyên Nhẫn thực hiện chỉ 30 ấn bản để tặng, theo các pháp thoại do Doãn Hương sưu tập lời giảng của Thầy Phước Tịnh về Thập Mục Ngưu Đồ. Doãn Vinh vẽ bìa và phụ bản. Nguyễn Đình Hiếu trình bày. Tâm Tường Chơn biên soạn. Bài này sẽ nhìn Thập Mưu Ngục Đồ qua bản đồ học Phật của Đấng Thế Tôn. Trong hai tạng Kinh A Hàm và Nikaya, Đức Phật đã từng so sánh tiến trình tu tâm như việc chăn bò. Trong Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một hướng dẫn tương tự như tranh chăn trâu, nhưng là lộ trình chín giai đoạn chăn voi. / A HÀM, NIKAYA: CHĂN BÒ, THIỀN TÔNG VÀ HẠNH BỒ TÁT/ Trong Kinh Tạp A Hàm SA 1249, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, Đức Phật dạy về kỹ năng tu tâm tương tự như kỹ năng chăn bò, với 11 pháp người chăn bò cần khéo biết.
Trong những ngày nhàn rỗi cuả tháng 4, vô tình được đọc tác phẩm The Sympathizer (Grove Press New York, 2015) của Viet Thanh Nguyen (sinh năm 1971 tại Ban Mê Thuột), với bản dịch Việt Ngữ của Lê Tùng Châu (23 chương 434 trang), tôi hoàn toàn bị cuốn hút và ngỡ ngàng trước một tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Viet Nam, nhưng toàn truyện như một bản hòa tấu đủ cung bậc thăng trầm, với nhiều đoạn trường canh vừa có triết tính và thơ mộng, vừa có ý nghĩa sâu sắc và mang tính gợi hướng của thời đại. Chính Viet Thanh Nguyen, một nhà văn người Mỹ gốc Việt đã đánh bại bao nhiêu tác phẩm khác trên đấu trường văn chương và được hội đồng chấm giải Pulitzer vinh danh, trao giải năm 2016...
Đầu thập niên 60, thầy Nguyễn Phú Long, hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Duy Hiệu ở Vĩnh Điện, Quảng Nam - dịch giả Nguyễn Kim Phượng – làm thơ với bút hiệu Hoàng Thị Bích Ni. Nhà thơ Luân Hoán, nòi tình với thi ca từ thuở học trò cho đến nay xấp xỉ tám mươi, với bút hiệu nàng thơ Châu Thị Ngọc Lệ xuất hiện trên tờ Ngàn Khơi, Thời Nay… mượn địa chỉ của một người đẹp có thật tên Đoàn Thị Bích Hà, ở Đà Nẵng. Có người từ Sài Gòn ra tìm… sợ bể mánh nên lấy bút hiệu khác là Lê Quyên Châu.
Tôi tình cờ đọc được một bài tiểu luận sâu sắc của một cựu nhân viên tình báo Hoa Kỳ nhắc đến việc virus Covid-19 có thể thoát ra từ một phòng thí nghiệm sinh học ở Vũ Hán Trung Quốc do điều kiện bảo giữ thiếu an toàn. Bài viết khiến tôi liên tưởng tới nhiều điều trùng hợp kỳ lạ giữa câu chuyện đại dịch hôm nay với câu chuyện đại dịch trong tiểu thuyết "Hoả ngục" của nhà văn Dan Brown bắt nguồn từ một con vi khuẩn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.