Hôm nay,  

Điểm Sách: Ngôn Ngữ Xanh

03/01/202000:00:00(Xem: 4519)


BIASACH_NNX_Scanned
Nhắc đến thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh, Phan Tấn Hải đã viết: “Đó là những dòng thơ, có khi đọc tới, và rồi có những lúc tôi đứng bật dậy, trân trọng đọc đi, đọc lại từng chữ, từng dòng.

   Đó là những dòng thơ, từng chữ một, khi được đọc tới đã hiện ra như một thiếu nữ bước rời khỏi trang sách để len vào đời thường, và rồi các chữ còn lại trên giấy đã tự trở thành những ẩn ngữ thơ mộng.”

 

*

 

Bước vào Ngôn Ngữ Xanh, là cùng tư duy với Nguyễn Thị Khánh Minh, là cùng với Thi Ca xoay lại nhìn về Thi Ca, là “phản quan tự kỷ” làm “bật tung những ẩn giấu”. Nó đòi hỏi một “ánh mắt cời khêu”. Có thể trích ra đây một bài “Thơ về Thơ” tiêu biểu trong tập Ngôn Ngữ Xanh này. Đó là bài có tựa đề chỉ có một chữ Thơ.

 

Nơi không gian thơ

Có thời gian cho lời đọng lại

Thầm thì đi. Bước chân đi mãi

 

Nơi bóng mát thơ

Khoảnh khắc chữ cho lời rơi xuống

Nghe lắng nghe. Quán tự tại yêu thương

 

Nơi lửa thơ

Những con chữ nhóm lời cháy đỏ

Thắp mặt trời cho những giấc mơ

 

Nơi biển thơ

Những con chữ bung lời nắng dậy

Đó là ban mai mỗi ngày được thấy

 

Bật lên triều xanh của lời

Chắp lên đôi cánh của lời

Bay xa bay xa. Trái tim của một người trao gửi

 

Bài thơ ngắn nhưng hàm súc cả triết lý về “metapoetry” của Nguyễn Thị Khánh Minh. Một bài “Thơ về Thơ” thật bình dị, dễ hiểu, nhưng sâu thẳm và rốt ráo. Nó cần lắm một “ánh mắt cời khêu” để:

   Không gian, thời gian của Thi Ca được dàn ra vô biên vô tận cho những bước chân thầm thì đi mãi.

   Cho bóng mát Thi Ca rợp bóng Quán tự tại yêu thương.

   Cho lửa thơ thắp ánh mặt trời cho những giấc mơ.

 

   Cho biển thơ bung lời nắng dậy.

   Cho bay xa xa mãi, trái tim của một người trao gửi.

 

   Ở đâu một ánh mắt? Để có Ngôn Ngữ Xanh?

 

– Tô Đăng Khoa

 

 

Giữa mong manh và thường trú, kéo lôi của bóng đêm chận ngăn ngày sáng, tiếng lời trỗi dậy biếc xanh mùi gió, lựng ngây thơm mây. Khánh mở ngày với ngôn ngữ xanh rất xanh,

 

Trở mình lá trong tàn cây mọc cánh

Nắng từng bầy nhảy nhót ban mai

Chạm vào nhau. Vỡ òa ra. Những mảnh…

                  (Nhịp Ngày, Ngôn Ngữ Xanh)

 

… Và buổi sáng phiêu nhiên, cái gì đang trôi trong không gian, điệu nhạc? Không nghe âm, chỉ một ngất ngưởng chuyển mình, không nói ra, tôi đang trôi, tôi lờn vờn trong từng âm điệu.

 

 

Mở cửa

Dòng nhạc trôi ra ngoài. Ban mai dậy sóng

 

Nắng lụt tôi trong căn phòng nhỏ

Và tôi. Đang ngộp thở ban mai

Bạn cảm thấy sao khi vừa mở cửa

đã rơi ngay trước mặt mình tiếng chim hót

Và bạn sẽ làm gì với những nốt nhạc ấy?

          (Những Nốt Nhạc, Những Buổi Sáng)

 

Như thế, Nguyễn Thị Khánh Minh vẽ. Không bằng cọ và mầu. Khánh vẽ bằng mực và viết. Cơn lụt nắng nâng cô lên, ban mai bừng đè nặng nhà thơ xuống, Khánh nhìn ngang, ồ cánh cửa. Hãy tung cánh rộng cho sóng dậy vào lòng. Chỉ mấy câu thơ mà thu tóm không gian ba chiều, trên, dưới và ngang, hội tụ vào hình tượng thi ca.

   Cũng như thế Nguyễn Thị Khánh Minh hòa âm. Nhạc khúc không viết bằng ký hiệu nhạc nhưng bằng mặt chữ đời thường. Và như thế tôi nghe âm nhạc thoát thai từ bức tranh trong tiết điệu thơ. Thi ca. Tài tình là thế. Và bạn sẽ làm gì với những nốt nhạc ấy? Thi sĩ hỏi, có ai cất tiếng trả lời? Có lẽ không còn cần thiết.

 

….

Khoảng thời gian im lặng

Là không gian mình đánh mất

Nơi rơi xuống của lời

 

Thủy chung nào

Ngưng được thời gian

Không gian nào

Giữ những lời đi…

       (Đường Mật, Ngôn Ngữ Xanh)

 

 

Lời rơi xuống ở khoảng thời gian im lặng, cũng là khi ta mất chốn về, được phía này thì biển dâu giằng co phía ấy? Lựa chọn thành ngã ba trầm thống của đoạn trường. Thủy chung chết cứng dưới nhịp bước thời gian, phôi pha ước hẹn khi lời đã cất và bay đi, không gian rộng đến muôn phương nào giữ lại được. Như mây bay về vô xứ? Lời trở thành chiếc bóng? Như nhạn của Hương Hải? “Ngôn” vô di tích chi ý?

   Một liên tưởng không tránh khỏi khi đọc thơ của Nguyễn Thị Khánh Minh và Dickinson. Tôi chẳng làm sự so sánh vì một sự so sánh như vậy vô nghĩa ở đây. Chữ nghĩa họ cuồn cuộn hồi sinh trở về trong nguyên ngữ tối hậu. “Đường mật” và “A word is dead” là chốn hội tụ anh thư tài tử, đề huề giao hưởng.

 

A word is dead

When it is said,

Some say.

I say it just

Begins to live

That day.

     (A Word Is Dead, Emily Dickinson)

 

Chữ chết đi

Khi vừa thốt,

Người bảo vậy.

Tôi cho rằng

Lời sống dậy

Lúc rời môi.

     (VHT phỏng dịch)

 

Tôi bắt gặp sự tương lân đồng điệu trong thơ của Khánh và Emily ở chỗ hai cô nương suốt cuộc bình sinh sống chết với Thơ, cật lực hít thở Thơ, chữ thơ ở đây phải được viết hoa cho đúng niềm trân trọng. Một trong những cách định nghĩa thơ của Khánh như thế này,

 

Thơ

Là dòng sông. Cho tôi trôi đi

Là tiếng khóc. Cho tôi rơi lệ

Là dấu mốc. Nhắc tôi trở về

 

Là bàn tay. Cho tôi nắm lấy

Nhưng thường khi. Nó là bóng đám mây bay

                                  (Thơ, Ngôn Ngữ Xanh)

 

Như vậy hội ngộ với Nàng Thơ quả là bất khả, như thể nhắn nhủ với nhân quần, này, tưởng là vậy mà không phải vậy. Cho đến khi ngươi chưa tan hòa trong tinh thể, đừng nghĩ sẽ nắm lấy được tay ta.

 

Trong mật của Nắng
Hoa hướng dương nở
Trong say men Thơ
Tôi đắm

Nắng và Thơ
Đường mật
Tôi và hoa hướng dương
Buông mình. Rơi. Và tan

    (Đường Mật, Ngôn Ngữ Xanh)

 

Thi ca như một vụ mùa, dù Khánh chỉ nhặt được “đôi ba hạt lúa chín”, chìm vào thơ tựa ngụp lặn ở dòng sông mát mẻ, cho dù “không mang về một hạt nước nào của nó”, cô còn giữ mãi “dư âm cái trườn mình của dòng chảy”  (Phút mong manh giữa những từ, tập thơ Ngôn Ngữ Xanh). Từ đó, thơ luồn phong ba dồn dập, thơ ghé bầu khí hậu bàng bạc cô đơn, thơ đưa người vào mơ. Để làm gì? Để mơ với mình thành một.

 

Em vào giấc mơ anh

        Nơi, em được là một giấc mơ…

                         (Tôi Đang Mơ)

 

… Tôi nghe niềm hy vọng xanh và lời thầm thì giữa đêm, thoại. Rất nhiều thoại. Độc thoại, giao thoại, đồng thoại với cái bóng của chính cô. Giữa đêm huyền tan chảy.

 

– Vũ Hoàng T

 

 

 

 

Thơ Nguyễn Thị Khánh Minh bao nhiêu năm rồi vẫn như thế, thi ngôn nền nã, sáng đẹp, thi tứ trữ tình, lãng mạn, đậm buồn, giàu thi ảnh, tràn đầy cảm xúc, và luôn luôn có những biến ảo lạ lùng trong ngôn ngữ khiến thơ như chắp cánh bay cao và bay xa trong những chiều kích khôn cùng.

   Nhan đề bài thơ là Phố Rất Xa. Hiển nhiên, nhà thơ muốn nói về miền đất quê hương của quá khứ, xa lắm rồi, bây giờ chỉ còn mơ hồ hiện về trong tâm tưởng những lúc ngồi cô độc nhìn mảnh trăng non vừa nhú. Thế nhưng suốt bài thơ, tôi không thấy Nguyễn Thị Khánh Minh nói gì về mảnh đất xa xôi ấy, tuyệt đối không, một dấu vết mờ nhạt cũng không thấy, mà chỉ là nỗi buồn nhẹ nhàng nhưng sâu thẳm của một tâm cảnh trong lúc nhìn trăng lên.

   A! Phải chăng đấy cũng là tâm cảnh cho một tứ thơ sầu vạn cổ, “Cử đầu vọng minh nguyệt, Đê đầu tư cố hương?” Nhưng câu chữ của Nguyễn Thị Khánh Minh ở bài thơ này đã làm người đọc tôi rụng rời để nghiệm ra cái tứ thơ sầu vạn cổ ấy ở bất cứ thời-không-gian nào cũng khiến con người có cơ hội sống thật với hiện thể và bản thể của hắn.

 

Tôi ngồi cong mảnh trăng non

 

Trời! Làm sao có thể cảm nhận được hiệu ứng của từ “cong” trong câu thơ? Như được phả bùa phép, cảm xúc từ câu thơ như được đẩy tới một biên vực mới. Tôi ngồi cong người nhìn trăng, hay trăng thượng huyền cong cong nhìn tôi? Có lẽ chẳng cần thiết phải biện biệt như thế, bởi cái nhị đối trở thành cái nhất nguyên và tôi đã tìm về cái tôi trong suốt.

   Thế rồi, cái hình tượng tôi-cong-trăng-cong ấy tan vỡ dưới thềm nhà biến thành những “miểng trăng im”.

 

Vỡ trên thềm những miểng trăng im

 

Từ một hình tượng tương đối bi sầu nhưng không mấy bi thảm, từ “miểng” của câu thơ trên đã khiến tâm cảnh biến đổi toàn diện. Chua xót. Đau đớn. Ánh trăng tan vỡ trên thềm biến thành những ký ức hãi hùng, những cảnh đời tưởng như chỉ có trong ác mộng!

   Lý Bạch ngày xưa “Ngửng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương”, Nguyễn Thị Khánh Minh ngày nay “Cúi xuống một hồn trôi ảo ảnh/ Kéo về đâu tôi bốn phía đêm”. Cách nhau hơn nghìn năm, nhưng hiện thể uyên nguyên là một. Xin cảm ơn, ở chân trời vẫn có người bay, và cảm ơn Khánh Minh.

 

– Trịnh Y Thư

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ lúc nhận sách đem về nhà, trong đầu tôi dường như có cái gì đó còn vướng vướng. Cầm cuốn sách, lật qua lật lại, lật tới lật lui. Vẫn chưa mở sách ra để đọc. Bổng nhiên mắt tôi dừng lại ở cái tựa đề sách “Gặp Gỡ Với Định Mệnh.” À, thì ra chính cái tựa đề này làm cho mình bị khựng lại. Rồi tôi thắc mắc về tựa đề cuốn sách “Gặp Gỡ Với Định Mệnh.” Định mệnh là định mệnh gì? Định mệnh của ai, của dịch giả họ Trịnh hay của tác giả bài văn tuyển dịch, hay của tất cả mọi người? Tôi có nằm trong cái định mệnh đó? Có cái gì đó tương quan tương duyên giữa “định mệnh” trong cuốn sách ngày xưa với “định mệnh” bất ổn của xã hội ngày nay? Chính những thắc mắc đó đã xô đẩy tôi bước vào cuốn sách và đi tìm câu trả lời. Tìm trong mục lục, tôi thấy có bài “Gặp Gỡ Với Định Mệnh” của nhà văn người Mỹ Philip Roth. Tôi vội vàng lật qua trang 47. Và tôi bắt đầu đọc một mạch không ngừng cho đến hết. Dịch giả Trịnh Y Thư rất tử tế, anh đã giới thiệu một cách trang trọng tác giả
“Chúng ta đến xứ sở này xa lạ / ra đi chưa hết lạ / nhưng không bao giờ thôi yêu mến / mặt hồ đại dương / căn nhà chở che hạnh phúc / lối mòn nhỏ ven rừng con ta bước tiên khởi tự do. / Đây là nơi chúng ta hàn gắn mình / Như thợ giày khâu vết thương há miệng / Sau đường dài ngập máu / sau đường dài ngập phân / sau chợ chiều cân xác chết chiến tranh / một triệu tiếng chuông không mua hết oan hồn. / Đây là nơi chúng ta sống đàng hoàng / và chết vào buổi chiều có cánh / bay về một xứ sở đã xa.
Qua cuốn sách này, Kissinger tổng kết những trải nghiệm phong phú qua hơn sáu thập kỷ trong chính trường thế giới. Là một người theo trường phái Hiện thực cực đoan (Hard-core Realist) trong lý thuyết Bang giao Quốc tế, ông đã phân tích theo khảo hướng lịch sử một cách xuất sắc về hệ thống chính trị châu Âu, các nước theo Hồi giáo, Trung Quốc và Mỹ, nhưng không đề cập đến sự phát triển tại châu Mỹ La tinh. Ông kết luận rằng có một hình thái mới trong quan hệ các siêu cường, nó dựa trên hệ thống theo Hoà ước Westphalen, sự cân bằng quyền lực trên toàn cầu và các nguyên tắc không can thiệp, tất cả sẽ là một mệnh lệnh chung cho việc xây dựng trật tự thế giới ngày nay. Tuy nhiên, nhìn chung, Kissinger không thể cung cấp các giải pháp khả thi hay bước đầu hữu ích. Có nhiều lý do để phản luận Kissinger mà bài điểm sách sau đây sẽ đề cập.
Ba mươi tháng Tư năm 1975 là dấu thời gian của những đổi đời, của vinh quang cùng đau khổ. Nhiều câu chuyện đã được kể lại, nhiều hồi ức đã viết về đất nước với chiến tranh quốc cộng và hệ lụy kéo dài. “Cha Vô Danh” [Nxb. L’Harmattan, France 2019, 532 trang] của Phạm Ngọc Lân ghi lại biết bao đổi thay, thăng trầm của đất nước, nhưng có những nét riêng vì trải dài gần ba phần tư thế kỷ từ đầu thập niên 1940 cho đến năm 2015 và qua những nơi ít được nhắc đến như Ba Bình, Lạng Sơn, Bảo Lộc, Vincennes, Toulon, Fréjus, Nouméa.
Chogyam Trungpa Rinpoche (1939-1987) là một trong những đạo sư Tây Tạng đầu tiên mang Phật Pháp đến phương Tây. Năm 1963 được học bổng để du học tại Đại Học Oxford. Năm 1967 sau khi tốt nghiệp Ngài thành lập Trung Tâm Thiền Samaye-Ling tại Scotland với phương pháp thiền áp dụng vào đời sống hàng ngày.
Cuộc đời của Nữ Thiền sư Dipa Ma đã được tác giả Amy Schmidt đem vào tác phẩm “Knee Deep in Grace, The extraordinary Life and Teaching of Dipa Ma”. Sau đó, Tác phẩm nầy được bổ túc thêm để trở thành tác phẩm mang tên “Dipa Ma, The Life and Legacy of a Buddhist Master”. Dipa Ma (1911- 1989) ra đời tại Chittagong, một làng nhỏ nằm về phía Đông xứ Bengal (ngày nay là Bengladesh). Lúc dó Bà mang tên là Nani Bala Barua chớ chưa phải là Dipa Ma.
Bên cạnh mười bài giảng của Thầy Phước Tịnh là mười bài Thiền Ca Chăn Trâu được kẻ nhạc do nhạc sĩ Tâm Nhuận Phúc sáng tác, dựa theo thơ Thầy Tuệ Sỹ. Sách in trên giấy đẹp, khổ vuông 8.5X8.5 inches, dày 90 trang. Sách “Mõ Trâu” do Tâm Nguyên Nhẫn thực hiện chỉ 30 ấn bản để tặng, theo các pháp thoại do Doãn Hương sưu tập lời giảng của Thầy Phước Tịnh về Thập Mục Ngưu Đồ. Doãn Vinh vẽ bìa và phụ bản. Nguyễn Đình Hiếu trình bày. Tâm Tường Chơn biên soạn. Bài này sẽ nhìn Thập Mưu Ngục Đồ qua bản đồ học Phật của Đấng Thế Tôn. Trong hai tạng Kinh A Hàm và Nikaya, Đức Phật đã từng so sánh tiến trình tu tâm như việc chăn bò. Trong Phật Giáo Tây Tạng, cũng có một hướng dẫn tương tự như tranh chăn trâu, nhưng là lộ trình chín giai đoạn chăn voi. / A HÀM, NIKAYA: CHĂN BÒ, THIỀN TÔNG VÀ HẠNH BỒ TÁT/ Trong Kinh Tạp A Hàm SA 1249, bản dịch của Thầy Tuệ Sỹ và Thầy Đức Thắng, Đức Phật dạy về kỹ năng tu tâm tương tự như kỹ năng chăn bò, với 11 pháp người chăn bò cần khéo biết.
Trong những ngày nhàn rỗi cuả tháng 4, vô tình được đọc tác phẩm The Sympathizer (Grove Press New York, 2015) của Viet Thanh Nguyen (sinh năm 1971 tại Ban Mê Thuột), với bản dịch Việt Ngữ của Lê Tùng Châu (23 chương 434 trang), tôi hoàn toàn bị cuốn hút và ngỡ ngàng trước một tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Viet Nam, nhưng toàn truyện như một bản hòa tấu đủ cung bậc thăng trầm, với nhiều đoạn trường canh vừa có triết tính và thơ mộng, vừa có ý nghĩa sâu sắc và mang tính gợi hướng của thời đại. Chính Viet Thanh Nguyen, một nhà văn người Mỹ gốc Việt đã đánh bại bao nhiêu tác phẩm khác trên đấu trường văn chương và được hội đồng chấm giải Pulitzer vinh danh, trao giải năm 2016...
Đầu thập niên 60, thầy Nguyễn Phú Long, hiệu trưởng trường trung học Nguyễn Duy Hiệu ở Vĩnh Điện, Quảng Nam - dịch giả Nguyễn Kim Phượng – làm thơ với bút hiệu Hoàng Thị Bích Ni. Nhà thơ Luân Hoán, nòi tình với thi ca từ thuở học trò cho đến nay xấp xỉ tám mươi, với bút hiệu nàng thơ Châu Thị Ngọc Lệ xuất hiện trên tờ Ngàn Khơi, Thời Nay… mượn địa chỉ của một người đẹp có thật tên Đoàn Thị Bích Hà, ở Đà Nẵng. Có người từ Sài Gòn ra tìm… sợ bể mánh nên lấy bút hiệu khác là Lê Quyên Châu.
Tôi tình cờ đọc được một bài tiểu luận sâu sắc của một cựu nhân viên tình báo Hoa Kỳ nhắc đến việc virus Covid-19 có thể thoát ra từ một phòng thí nghiệm sinh học ở Vũ Hán Trung Quốc do điều kiện bảo giữ thiếu an toàn. Bài viết khiến tôi liên tưởng tới nhiều điều trùng hợp kỳ lạ giữa câu chuyện đại dịch hôm nay với câu chuyện đại dịch trong tiểu thuyết "Hoả ngục" của nhà văn Dan Brown bắt nguồn từ một con vi khuẩn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.