Hôm nay,  

Cuộc Gặp Gỡ Đong Đầy Hy Vọng

4/29/202011:25:00(View: 4596)

(Nhận định về tác phẩm The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen)
(Ghi dấu tháng 4 đen lần thứ 45.)

Trong những ngày nhàn rỗi cuả tháng 4, vô tình được đọc tác phẩm The Sympathizer (Grove Press New York, 2015) của Viet Thanh Nguyen (sinh năm 1971 tại Ban Mê Thuột), với bản dịch Việt Ngữ của Lê Tùng Châu (23 chương 434 trang), tôi hoàn toàn bị cuốn hút và ngỡ ngàng trước một tiểu thuyết lấy bối cảnh về chiến tranh Viet Nam, nhưng toàn truyện như một bản hòa tấu đủ cung bậc thăng trầm, với nhiều đoạn trường canh vừa có triết tính và thơ mộng, vừa có ý nghĩa sâu sắc và mang tính gợi hướng của thời đại. Chính Viet Thanh Nguyen, một nhà văn người Mỹ gốc Việt đã đánh bại bao nhiêu tác phẩm khác trên đấu trường văn chương và được hội đồng chấm giải Pulitzer vinh danh, trao giải năm 2016...


Tóm Lược Cốt Truyện:

Nhân vật "Tôi" trưởng thành trong thời đoạn đen tối nghiệt ngã của cuộc chiến Quốc - Cộng, với vai trò là kẻ nằm vùng cho phe Cộng sản, "Tôi" trà trộn vào hàng ngũ của ông Tướng (bên Quốc Gia) với vỏ bọc là một Đại Úy Cảnh Sát Quốc Gia, nhưng cung cấp mọi tin mật thu được và báo cáo về cho cấp trên là "Man" (bên Cộng sản). Câu chuyện xoay quanh 3 nhân vật chính từ thuở ấu thơ và đã cắt máu ăn thề kết nghĩa tình huynh đệ là "Tôi", "Man" và "Bon", như đại diện cho 3 kiểu người điển hình của đất nước, mà trong đó "Tôi" người luôn suy nghĩ nhiều chiều, gom góp, thu nhặt nhưng là để nhìn thấu bản ngã của anh để thành nhất thể có chính kiến; "Man" người Cộng sản có tư tưởng và hành động thuấm nhuần chủ nghĩa Marxist, luôn khao khát "giải phóng" miền Nam với hy vọng dựng xây đất nước thành thiên đường Cộng sản; "Bon" người biệt kích của quân đội miền Nam, đau đớn căm phẫn khi quân Cộng sản tàn ác dấy lên chiến tranh nơi quê hương anh, vợ và con anh đã tử nạn trên đường vượt thoát khỏi Sài Gòn vào ngày thất thủ. Tuy đại diện 3 tuýp người khác nhau nhưng có vẻ đều chung phần cố gìn giữ nhân tính thẳm sâu trong lòng, dẫu con tàu định mệnh lịch sử đã dằn nát tàn khốc xác thân, tâm hồn họ. Họ không còn "nhà" nữa, họ phải trốn chạy ("Tôi" và "Bon")
Sau đó "Tôi" và "Bon" cùng tị nạn trên đất Mỹ mà khổ sở nhớ thương quê hương, luôn mong chờ sẽ có ngày về. Trong khi "Man" ở lại chứng kiến phút giây chuyển đổi nghiệt ngã của lịch sử. Cả ba đều mang từng nhiệm vụ riêng biệt. "Tôi" vẫn tiếp tục cung cấp thông tin tình báo cho phía Man và Cộng sản về nhất cử nhất động nội tình của ông Tướng và đoàn phục quốc quân (trong đó có Bon) với kế hoạch quay trở về xâm nhập nội địa.
Chuyến "Tôi" và "Bon" từ căn cứ ở Thái Lan băng rừng xâm nhập Việt Nam thì cả hai bị lọt ổ phục kích (do "Tôi" mật báo) và bị bắt. Sau đó, "Tôi" và "Bon" bị đưa vào trại tù cải tạo. Tại đây "Man" là Chính trị viên - trại trưởng trại cải tạo này, có quyền sinh sát mọi tù nhân.

Viet Thanh Nguyen đã tạo nút thắt đỉnh điểm cao trào đầy xung đột kịch liệt cho câu chuyện đến đây là 21 chương. Cả "Man" và "Tôi" đều nhận ra rằng họ đã bị nhầm khi dấn thân, hy sinh tuổi trẻ mình cho “cách mạng”: Lý tưởng Cộng sản chỉ là chiếc bánh vẽ dối trá, miền Bắc Cộng sản sau khi thôn tính miền Nam quốc gia, đã không hề giải phóng cho ai cả mà còn dùng bạo lực tước đoạt tự do của toàn thể dân chúng. Thế là Man và “Tôi” cùng phối hợp diễn vài màn kịch tính do "Man" dựng ra để cứu sống "Bon" và "Tôi" ra khỏi trại tù cải tạo và đưa cả hai vượt biên bằng thuyền chạy thoát khỏi đất nước. Tại đây, Tác giả đã xây dựng thành công một lối mở cho nút thắt của câu chuyện.

Thế nhưng, thật ngang trái ở chỗ ngay từ đầu cả đến cuối truyện, "Bon" là người không hề biết sự thật về "Man" là Cộng sản, về “Tôi” là Việt cộng nằm vùng, cũng như không hề biết mối quan hệ đồng chí giữa "Tôi" và "Man". Thậm chí khi bị vào trại cải tạo "Bon" vẫn không biết Man là chính trị viên - trại trưởng trại tù cải tạo đó. Chớ phải chi "Bon" biết chân tướng nằm vùng của hai người anh em kết nghĩa của mình, anh ấy sẽ giết họ ngay lập tức chăng vì lập trường bất biến của Bon là không chấp nhận Cộng sản?
Rồi đây, Số phận "Man" như thế nào không ai biết.
Xin mời quý độc giả đọc tác phẩm sẽ rõ.


Tác Phẩm Trong Mắt Tôi:

Tuyệt tác thâm thúy The Sympathizer của tác giả Viet Thanh Nguyen (qua bản dịch Việt ngữ của Lê Tùng Châu) mở đường cho độc giả hiểu những kiến thức Sử nội chiến Quốc Cộng 20 năm, chính trị, văn hóa và kiến thức Đông - Tây, văn chương, nghệ thuật, âm nhạc, triết học, giáo dục, cách mạng tình dục (ở Mỹ và phương Tây)...

Nhưng cốt lõi hơn cả đây là bản cáo trạng trần trụi khiến người đọc suy tư vì đâu chiến tranh Viet Nam tang thương, quê hương điêu linh? Phải chăng các bên cường quốc thế giới nhảy vào đất nước chúng ta vì tranh dành một miếng mồi béo bở. Phải chăng họ dành quyền đại diện thay tiếng nói của dân ta mà cuộc chiến ấy do Quốc tế Cộng sản và Tư bản gây nên. Phải chăng Miền Bắc "giải phóng" miền Nam chỉ vì ý thức hệ và tham vọng quyền lực. Phải chăng những kẻ rêu rao danh nghĩa cách mạng đấu tranh giành độc lập tự do lại tước đoạt tự do của người khác?
Bởi đâu mà những giá trị văn hóa, giáo dục, đạo đức, nhân bản bị suy đồi, đạp đổ tàn nhẫn ngay tại thiên đường XHCN mục ruỗng ngày hôm nay. Biết bao mạng người đã ngã xuống trong quá khứ lẫn tiếp diễn đến hiện tại cách vô nghĩa để đổi lại một xã hội đói nghèo, tối tăm, tha hóa, không tương lai. Những thuyền nhân cố tìm đường chạy trốn Cộng sản từ ngày "hòa bình" đến trên quê hương? chiến tranh Việt Nam ta đâu đã kết thúc?

Viet Thanh Nguyen đã dùng thuật sáng tác độc đáo vô cùng mà chỉ khi đọc trọn tác phẩm, người ta mới nhận ra toàn bộ tiểu thuyết chỉ là một bảng thú nhận / một bản kiểm điểm cay đắng của nhân vật "Tôi" - gián điệp hai mang - được viết trong xà lim biệt giam những năm tháng chịu sự tra tấn tàn bạo của chính các đồng chí Việt cộng. Mà rồi chính bảng thú nhận đó chẳng phải là một bằng chứng hữu hình, hữu hiệu hòng nỗ lực lên tiếng vạch trần những mưu đồ đen tối, biến chất, vô nhân tính của chế độ cộng sản đó sao?

Bên cạnh kiến thức uyên thâm, thuật sáng tác tài tình, cũng phải kể đến cách dụng văn và ý của Viet Thanh Nguyen. Có lúc ông dùng thủ pháp Ẩn – Hiện, Hư – Thực, dương Đông kích Tây, chỉ Tang mạ Hòe, Ý tại Ngôn ngoại, đồ đi đố lại, châm biếm, trào phúng, tự trào, ẩn dụ, phân thân, ngụy trang, đánh lạc hướng - bắt người đọc phải suy nghĩ để nhận ra (Ví dụ chương 22, đoạn đối đáp của nhân vật Tôi với 3 nhân vật Cộng sản về cái chết người cha Linh Mục của “Tôi” – với một viên đạn vào đầu???), Thuận - Nghịch thời gian, biến chuyển không gian - thủ pháp dựng phim điện ảnh này chuyển cảnh liên tục... Tất cả được kết hợp thuần thục, khéo léo để trình bày cái nhìn cũng như kết án và tố cáo, một cách bậc thầy khi viết văn.

Việc xây dựng nhân vật "Tôi" có hai tâm trí trong cùng một xác thân với diễn biến tâm lí và quá trình hoạt động hoàn toàn chặt chẽ. Viet Thanh Nguyen luôn để nhân vật của mình nhìn nhận và có chính kiến, bày tỏ cái hay - dở, đồng tình hay phản đối, thuận tiện hay bất lợi trên mọi bình diện của cuộc đời "Tôi" từ văn hóa, sinh hoạt hai miền Nam - Bắc (và cả những dị biệt 2 nền văn hóa Đông - Tây), giáo dục, quan điểm chính trị, ứng xử, nhưng phải kể đến ở "Tôi" là sự tổng hòa thấu hiểu nguyên do và nỗi đau chiến tranh Viet Nam với hai mặt của vấn đề xuyên suốt mạch truyện cách công tâm, đặc biệt phải kể đến thủ pháp phân thân trong đoạn tra khảo (chương 22) - từ nhân vật "Tôi" thành Chúng Tôi rõ nhất ở đoạn cuối (chương 23), rồi đến Chúng Tôi hòa vào Chúng Ta. Rõ ràng, đây là nhân vật chính diện luôn trong trạng thái tỉnh thức, trăn trở, suy tư và mang bao gởi gắm quan điểm, tâm tình, khai mở và hi vọng của Viet Thanh Nguyen đến với bạn đọc, rằng hãy luôn suy biết hai mặt nhị nguyên của chiến tranh Việt Nam, đừng chỉ ấu trĩ nhìn về một chiều, đừng để bị nhồi sọ bởi bánh vẽ ảo tưởng tốt lành Độc Lập, Tự Do, cái mà đã không bao giờ có ở thực trên đất nước chúng ta kể từ ngày "cách mạng " thành công, đừng để họ áp đặt, đại diện thay chúng ta bằng tiếng nói rỗng tuếch, dối trá của họ, đừng để họ cầm tù ý nghĩ của chúng ta. Đừng để họ ru ta bằng khẩu hiệu vô nghĩa. chính chúng ta phải cất lời đại diện cho vận mệnh của nước Việt mình, nếu không, chúng ta đang chết, sẽ chết đến mất dạng, chết mịt mùng, và đáng sợ hơn hết là chết trong chính việc đang sống từng ngày (và thực tế, chúng ta đã không có được tiếng nói đại diện nào cho mình. Dân tộc ta, miền Nam cũng như Bắc đâu ai chọn cái chết vô nghĩa vô ích, thế nhưng kẻ nào đã chọn cho chúng ta thế này?).

Điều gì làm ông Viet Thanh Nguyen khắc khoải đến nỗi từ một người Việt tị nạn khi mới lên bốn rồi trưởng thành ở xứ người với nhiều nét giống người Mỹ hơn người Việt, nhưng vẫn luôn đau đáu, xót xa lội ngược về cội nguồn nơi mà tâm khảm ông gắn mình liền thân với quê nhà, với hồn thiêng quốc túy, với kho tàng tiếng Mẹ. Một nhân sĩ có chí lớn công tâm, yêu quê hương tha thiết, cố đào bới kho lịch sử để đặt bút viết nên tác phẩm đầy thao thức, gợi hướng, hằng mong mỏi bạn đọc nhận ra, mà cất lên lời cho những đồng bào đang chịu ách tà ngụy, bất công trong xã hội băng hoại này và phục dựng những điều đẹp xưa cũ từng hiện diện nay đã mất đi.

Phải nói thêm rằng việc xây dựng 3 nhân vật chính: "Tôi", " Man", "Bon" như thể biểu trưng cho 3 chí nguyện, 3 khuynh hướng, 3 lập trường cho một hoàn cảnh éo le ngang trái có thực trong cuộc nội chiến Quốc – Cộng tương tàn đã được tác giả khéo léo khái quát tài tình. 3 Biểu tượng cho cuộc chiến Quốc - Cộng oan khốc đó là Miền Nam không bao giờ chấp nhận sống chung với Cộng sản, trong khi đó Miền Bắc đòi đánh chiếm miền Nam bằng mọi giá rồi biến miền Nam chìm trong máu và lửa, còn những người như "Tôi" - một phe thân với cả hai bên - đại diện cho cái rốn tâm thức của người dân Việt Nam từ hai phía, luôn muốn dung hòa. Đó là thân phận đau đớn của đất nước chúng ta, tình trạng của "Tôi" - nhân vật Đại Úy - có đầy trong các gia đình Việt Nam. Mà đó có phải chính hình ảnh người Quốc Gia đã vô cùng ngây thơ, hiền lành, thậm chí không biết mình bị lợi dụng trong cách chơi với bạn bè với anh em? bị phản bội bởi những người không đáng gọi là bạn, không phải tình bạn, tình anh em trong ánh sáng nhưng chỉ là mối quan hệ ảo ảnh, đục khoét, lén lút, nằm vùng đầy toan tính trong bóng đêm? Tại sao họ có thể là bạn hữu khi họ lừa dối, mưu mô, che giấu, chui rúc, gian xảo với chính anh em một nhà? Ngược lại, bên nào đã vinh danh "lí tưởng cao đẹp" mà đi giết đồng bào ruột thịt mình không gớm tay bằng toan tính tàn ác? Tác giả thấu rõ sự thật ngang trái đau lòng này hơn ai hết và đã khái quát bối cảnh chiến tranh Nam - Bắc qua việc xây dựng ba nhân vật điển hình, đầy dụng ý như vậy.

Cái tài tình, duyên dáng mà thâm sâu ở ông còn biểu lộ qua chất thơ lung linh, kì diệu từ những hình ảnh biểu trưng thân quen của quê hương như: bác xích lô già, áo dài nữ sinh đoan chính, những hộp đêm văn nghệ thơ mộng ở Sài Gòn, cà phê, Cognac, hình ảnh những trận bóng chân trần, tiếng bồ đập lúa mùa gặt, tiếng chó sủa, tiễng mõ, vòng tay ôm của mẹ, phong bì lì xì mê hoặc vui sướng, nhạc vàng trữ tình, hương vị món phở quê nhà đượm đầy tình cảm của người mẹ nấu cho con, tình yêu đôi lứa nồng nàn, tình nghĩa vợ chồng, diễn trình hình thành bào thai - kết tinh của sự sống thiêng liêng, sự huân dưỡng con trẻ, hay ơn Cúc dục Cù lao, ... hay đến ảnh hình oan nghiệt, ngang trái như: màu đỏ máu của “cách mạng”, cái tay búa liềm, bàn chân chui rúc, cái mặt không còn mặt, tiếng hét rú, tiếng cười man rợ, nỗi đau, thời gian không còn chạy thẳng tưng, những khuôn gạch đúc từ phân người để làm nên tòa nhà “cách mạng” đầy ẩn dụ mỉa mai miệt thị ... cho đến những câu văn đầy triết tính về sự sống, cái chết, khổ đau, tự do và giá trị nhân bản. Xuyên suốt truyện, không nơi nào mà tác giả thôi nhắc đến tình yêu và sự tri ân của người con trai - nhân vật "Tôi" - với công ơn sinh thành dưỡng dục của người mẹ, một tình cảm thiêng liêng cao trọng mà không sao đong đếm cho tận, vượt thắng cả không gian và thời gian mãi mãi. Ngoài tình cảm sâu nặng với người mẹ huyết thống máu mủ ấy, phải chăng tác giả còn hàm nghĩa rằng, ông cũng như tất cả chúng ta, mọi con dân Việt, chớ quên ơn Đất Mẹ, phải chi là Người Mẹ hoa gấm của bao thế hệ, vẫn luôn trường tồn trong tâm thức mỗi người? Tất cả được đính kết đầy dụng ý mà càng ngày chỉ càng thắt chặt thêm tính thống nhất vững chắc giá trị của tác phẩm The Sympathizer mà chỉ đôi dòng ngắn ngủi ở đây không thể nào kể hết được.


"Tiếng nước tôi, Tiếng Mẹ sinh từ lúc nằm nôi, Thoát ngàn năm thành tiếng lòng tôi ..."

"...Tiếng nước tôi, Bốn ngàn năm ròng rã buồn vui, khóc cười theo mênh nước nổi trôi ..."
[Phạm Duy - Tình Ca]

Có một chút tư lự là phải chăng người ta thường hay tiếp nhận những áng văn, bản dịch, hay tiếng Mẹ trong đời sống với thói quen đọc những câu chữ ăn liền, dễ ăn, dễ hiểu, cạn nghĩa, tối nghĩa, sai nghĩa, như thể tiếp cận một bản tin bọt bèo nhanh lẹ rồi chóng quên. Phải chăng người ta chỉ quan tâm phần ngọn chứ ít ai thấy áng văn đẹp lưu luyến mãi không rời, có đào sâu hồn để văn chữ dạy mình thành người, có sống với văn chương chữ nghĩa đó chăng? có khi họ biến tiếng Mẹ méo mó, lệch lạc lẫn lưu dùng cái sai lệch mà không biết nghĩ tới cho các thế hệ trẻ sau này.

Chính đó, tôi biết ơn Viet Thanh Nguyen với tác phẩm văn chương tâm huyết, tôi cũng xin tri ân dịch giả Le Tung Chau môt người thông tuệ đã chuyển ngữ nguyên tác sang Việt ngữ bằng tất cả sự chân thật, trung thành và tôn trọng nguyên tác của anh và bỏ công chú thích hơn 150 điểm giúp bạn đọc dễ dàng hiểu những kiến thức phổ thông, văn hóa, lịch sử được đề cập trong tác phẩm. Giá trị Việt văn giàu có Tiếng Mẹ đẻ cách trau chuốt, trân trọng, nâng niu, góp phần làm độc giả tri nhận tri thức cách dễ dàng, đúng đắn và sâu lắng, và từ tri nhận tri thức qua văn chương tinh túy đắt giá nơi bản dịch Việt ngữ, người ta huân dưỡng, làm giàu tâm hồn tròn trịa nhân cách, nhân bản cuả mình để biết sống cho đời, điều mà có lẽ hiếm dịch giả nào đã làm đúng trách nhiệm giữ gìn sự giàu có của kho tàng trí tuệ văn chương trong tình cảnh nước nhà mục nát trên mọi cơ sở, đặc biệt lĩnh vực văn chương, nghệ thuật hay báo chí như hiện nay.


Lời Kết:

Suy cho cùng, khi ta gấp sách lại, The Sympathizer của Viet Thanh Nguyen đọng lại điều gì? Ngoài lên tiếng tố cáo tội ác của Cộng sản trong chiến tranh Việt Nam, Giá trị lớn vươn tầm thế giới đoạt giải Pulitzer này chẳng phải đầy triết tính về mặt nhân bản sao? Là rằng để sống đúng là một con người hoàn chỉnh (không phải con vật, một chiều, một hướng) chẳng phải ta nên đặt mình vào cương vị của người khác mà nhìn nhận, suy xét để hành xử, đối đãi với nhau, với cộng đồng, với thế giới đại đồng cho đúng sao? Nếu không như thế, bao giờ con người là mới thành người?

..
Tháng ngày này, tháng ngày trân quý và hy vọng ở những cuộc gặp gỡ tri thức, suy biết, văn chương, con người và sự biến đổi...


Thaophuong ngày 25.4.2020

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ngôn Ngữ đặc biệt về “tác giả tác phẩm”, cuốn này hân hạnh được giới thiệu đến quý bạn đọc, một cây bút tài danh đã viết và thành công trong hầu hết trong nhiều bộ môn văn học nghệ thuật qua bốn thập niên. Tác giả đó là nhà văn Trịnh Y Thư. Ông tên thật Trịnh Ngọc Minh, sinh ngày 11 tháng 2 năm 1952 tại Hà Nội, trưởng thành tại Sài Gòn, du học và hành nghề điện tử viễn thông tại Hoa Kỳ cho đến khi hưu trí vào năm 2018. Như đã thượng dẫn, Trịnh Y Thư là một người đa tài, chúng tôi xin giới thiệu đại khái về từng bộ môn ông đã sinh hoạt. Trong bộ môn văn, ông đã viết và phổ biến rộng qua sách in từ truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dịch, khảo cứu, nhận định văn học, tùy bút, tạp bút, tạp luận. Với bộ môn thi ca, ông có một số ít bài theo phong cách vần điệu nhưng không cùn mòn. Chúng tôi nghĩ ông rất hứng thú và chuyên về trường ca, hoặc những bài viết có số lượng câu không quá ngắn hoặc quá dài, và ông cũng sử dụng cả lối thơ Hokku với chỉ 3 câu cho từng khổ.
Trong số truyện ngắn của nhà văn Doãn Quốc Sỹ, “Chiếc Chiếu Hoa Cạp Điều” trong tập truyện Gìn Vàng Giữ Ngọc có lẽ là tác phẩm được độc giả nhắc đến nhiều nhất. Dựa trên câu chuyện cơ cực có thật của chính gia đình mình trong thời toàn quốc kháng chiến chống Pháp, Doãn Quốc Sỹ đã kể lại với một cách nhìn nhân bản, kết thúc với đoạn văn được những người hâm mộ trích lại nhiều nhất: “…Ở thế giới thực dân tư bản người ta tung vật chất ra để giam lỏng linh hồn; ở thế giới thực dân cộng sản, người ta phong tỏa vật chất để mua rẻ linh hồn. Cả hai cùng thất bại! Linh hồn nhân loại chỉ có thể mua được bằng tình thương yêu rộng rãi và chân thành…”
"Dòng Đời", tác phẩm thứ sáu của nhà văn Lê Lạc Giao, lấy cảm hứng từ sự tuôn chảy của một dòng sông để phác họa nhiều dòng chảy khác sâu kín, phức tạp, đa chiều trong nội tâm của Hiểu, nhân vật chính trong tiểu thuyết. Hiểu lạc trôi theo vận nước, bước qua những tàn tích của lịch sử, qua những bóng ma quá khứ, những khoảnh khắc cô đơn tuyệt vọng để tìm lại bản thân, hội nhập, đối diện với những thử thách mới trong hiện tại và tương lai.
Suy nghĩ về thơ, Đặng Toản đã viết: “ ... Thơ chấp nhận mọi sự đẽo gọt và không đẽo gọt, từ vi tế đến thô ráp, từ dân gian đến bác học và các thành phần tham gia vào chiếu thơ có mặt phu xe và tể tướng, gã ăn mày và đại phú hộ...” ( Nghĩ về thơ, trang 258). Do đó sẽ càng thú vị hơn, khi ta bắt gặp những hình ảnh thơ, những câu thơ với những ngôn ngữ “nghề nghiệp” song cũng đầy mới lạ và ấn tượng của “gã thợ tiện’ bên những tia laser cắt... ống sắt!
“Ai là tiểu thuyết về sự mất tích của bản thể, của những con người, trên sân khấu của đời sống như một viện bảo tàng. Ai ngẫu nhiên được hình thành như bản tẩu pháp (fugue) về hành trình trốn chạy, lưu vong, tỵ nạn, hoá thân của con người trong thời hiện đại. Ai là sự kết hợp các hình thức sáng tạo trong tiểu thuyết như phim ảnh, tường thuật, truyện lồng trong truyện (metafiction), để tạo một không gian cho các ý niệm phản chiếu lẫn nhau, trong màn triển lãm nghệ thuật sắp đặt (installation) dùng ý tưởng. làm chất liệu. Ai mở ra sân chơi cho trò chơi ngôn ngữ đang cần khai phá thêm và khai quật lại. Ai là một thử nghiệm về thời gian để người đọc tự tìm kiếm câu trả lời cho họ.”
Tập truyện ngắn “Chuyện cũ phù dung trấn” ( CCPDT), là tác phẩm thứ 16 của Tiểu Lục Thần Phong ( TLTP ). Sách dày 362 trang, gồm 36 truyện ngắn, với những suy tư trăn trở về cuộc sống nơi quê nhà và cả nơi xứ xa, mà tác giả hiện đang sinh sống. Thấm đẫm những hiện thực của cuộc sống và gắn kết cả chuyện đời, chuyện đạo, gây ấn tượng và những suy ngẫm cho bạn đọc...
Tôi đã yêu mến và ngưỡng mộ gần như tất cả các nhân vật được viết trong tuyển tập này. Trong đó có những người là bậc thầy vô cùng cao tột của tôi: Thầy Trí Siêu Lê Mạnh Thát, và Thầy Tuệ Sỹ. Những vị khác về nhiều mặt cũng là những bậc thầy của tôi, nghĩa là tôi nhận thấy có phương diện nào đó để học từ họ, nhờ cơ duyên thân cận hoặc nhờ gặp trong làng văn chương. Thí dụ, Giáo sư Trần Huy Bích là đỉnh cao về Hán học, về nghiên cứu thơ và cổ văn, với những nghiên cứu về nhà thơ Vũ Hoàng Chương cực kỳ thơ mộng và thâm sâu.
Cuốn sách này, như chính tựa đề, Đường về thủy phủ, đã báo hiệu điều gì đó huyễn hoặc. Vì vậy, bạn đọc nếu chờ đợi một câu chuyện tiểu thuyết thông thường có đầu đuôi, có lô-gic, có sự tình chặt chẽ hợp lý, xin gấp sách lại, hãy tìm đọc một cuốn khác. Là một tác phẩm siêu hư cấu không có chủ ý đáp ứng những quy củ tiểu thuyết thông thường, Đường Về Thủy Phủ của Trịnh Y Thư là một tập hợp của ba câu chuyện, ba toa riêng lẻ của một chuyến tàu, vận hành trên cùng một đường rầy thiên lý, theo chiều dài của một giai đoạn lịch sử chiến tranh tanh nồng, nơi hành khách là những nhân vật bị ném lên tàu, vất vưởng chuyển động trên một trục cố định, dốc toàn bộ sức lực và trí tưởng tượng gắng tìm cho mình một lối thoát, hay theo tác giả, tìm một lối về.
Thật sự, ở một mức độ nào đó, người đi vào quyển sách đều có thể nhận ra ít nhiều, ở chỗ này hay chỗ khác, qua những góc quay khác nhau, với những mức độ đậm nhạt khác nhau, tất cả các dự cảm vừa được trình bày ở trên. Nhưng nếu nghĩ đây là một cuốn tiểu thuyết lịch sử, hay một tiểu thuyết chiến tranh, chúng ta sẽ ngộ nhận tác giả. Tiểu thuyết này, với tính chất và cái nhìn đặc thù của tác giả, không hề có mục đích ấy. Lịch sử có ở đó, cùng với khuôn mặt kinh hoàng, gian trá, điên đảo, và tàn bạo của chiến tranh. Nhưng đây là một cuốn tiểu thuyết chỉ lấy lịch sử làm một cái nền với những gam màu rất mờ nhạt, và, dĩ nhiên, nổi bật lên vẫn là một màu đỏ nhờ nhờ, điên quái, bất tín và bất-khả-tín, khi thì chỉ ươn ướt, chỗ lại đặc quánh những vết thương làm mủ của lịch sử..
Tập sách nhắc đến tiệm phở gần đầu đường Nghĩa Phát, vừa từ đường Bành Văn Trân rẽ vào, là tiệm của bác Huyền, người cùng giáo họ Long Cù, xứ Trực Chính với thày u tôi, là những gia đình công giáo theo các cha di cư vào Nam. Đó là tiệm phở đầu tiên nằm trong giáo xứ Nghĩa Hoà. Được sinh ra và lớn lên trong giáo xứ này, tôi muốn chia sẻ thêm về những quán phở ở Nghĩa Hoà. Sau phở bác Huyền, vào đầu thập niên 1970 có một tiệm phở nữa cũng trên đường Nghĩa Phát gần đầu nhà thờ. Còn theo đường Nghĩa Hoà phía cuối nhà thờ, đi vào đến ngã tư ông Nghìn có tiệm phở của ông giáo Chung.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.