Hôm nay,  

Giới thiệu sách mới: Thérèse Desqueyroux, tiểu thuyết của François Mauriac, T. Vấn chuyển ngữ

09/12/202221:12:00(Xem: 3612)

Giới thiệu sách mới:

Bia truoc 2

 


LỜI TỰA

 

Tại sao tôi dịch Thérèse Desqueyroux của François Mauriac?

 

Thérèse Desqueyroux, tên tác phẩm của François Mauriac, và cũng là tên nhân vật nữ chính, ra đời từ năm 1927. Đến nay, nó đã tròm trèm trăm tuổi, trải dài 5 thế hệ.

 

Xưa rồi diễm! Tôi nghe có tiếng nói nhỏ bên tai của người bạn đời vừa ra đi chưa trọn năm. Bộ anh không còn chuyện gì để làm hết sao?sắp tới cuối đường rồi, sao không lo thu xếp hành trang – nhiều hay ít gì cũng là hành trang; thu xếp lại những việc còn dang dở - nhiều hay ít gì thì cũng là việc còn dang dở - để rồi còn dọn mình (xưng tội) nữa.

 

Sống đến từng tuổi này, tôi nhận ra được một điều hết sức hiển nhiên: rằng không phải lúc nào người ta cũng có những lý do xác đáng cho những việc mình làm; và rằng hầu hết những việc người ta làm – bất kể là chuyện gì, chung, riêng, chính trị, văn chương, xã hội, yêu, ghét, làm tình, làm tội v..v…- đều có một lý do (nếu không chính thì cũng gần như chính, nửa chính, xém chính…) rất cá nhân, rất riêng của mỗi người.

 

Việc bỏ thì giờ (ít ỏi còn sót lại) để làm công việc dịch tác phẩm trăm tuổi của Mauriac, cũng có lý do rất cá nhân (mà giờ đây – may mắn hay không may mắn – người bạn đời của tôi không còn ở bên cạnh, nên tôi dễ dàng “tâm sự” với người đọc).

 

Với Thérèse Desqueyroux, chính Mauriac cũng đã thú nhận cùng con trai của mình rằng, khi viết tác phẩm này, ông muốn mượn nhân vật nữ chính nói hộ những điều mà ông tin rằng mình không thể nào chịu đựng nổi nữa trong cuộc sống lúc đó của ông. Nói cách khác, Mauriac cũng có những lý do rất cá nhân của mình khi viết Thérèse Desqueyroux.


nguoivo 

Quyết định bắt tay vào việc dịch tác phẩm này của tôi, cũng mang “tính cá nhân” tương tự. Một hôm, trong lúc dạo chơi quanh các hàng sách cũ của thế giới ảo, tôi bắt gặp bản chụp một quyển sách của dịch giả Mặc Đỗ, nhan đề “Người Vợ Cô Đơn” do nhà xuất bản Đất Sống ấn hành (sách không đề năm nhưng theo trí nhớ, tôi đọc quyển này vào những năm 1965 đến 1968 ở Sài Gòn). Đây là bản dịch quyển Thérèse Desqueyroux của Mauriac. Như bị nhấn trúng một nốt nhạc “chết người” trong bản nhạc của quá khứ hơn 50 năm về trước, tôi thấy mình trở lại hình ảnh cậu trai tuổi dậy thì Jean Azevedo (một nhân vật của Thérèse Desqueyroux) cũng huênh hoang  “thùng rỗng kêu to” với những quyển sách thời thượng Ý thức mới trong Văn nghệ và Triết học của Phạm Công Thiện, với Tự Do đầu tiên và cuối cùng của Krisnamurti; y hệt như anh chàng Jean Azevedo trong sách. Và “lãng mạn” hơn nữa, tôi cũng quen biết một người phụ nữ lớn hơn mình, trưởng thành hơn mình, biết hút thuốc lá như mình và mở miệng ra cũng “thời thượng” như mình và hoàn cảnh riêng cũng “bất hạnh” không kém nhân vật Thérèse của tiểu thuyết. Chúng tôi cùng nhau đọc “Người Vợ Cô Đơn” và những quyển sách thời thượng, cùng nhau thở khói “hiện sinh” để đốt cho hết đời mình.

 

Nhưng tôi chưa kịp đốt hết đời mình bằng những điếu thuốc Bastos xanh, ly cà phê đen đặc, những trang sách dịch của Mặc Đỗ và những quyển sách thời thượng, cùng nỗi chán chường của người đàn bà “cô đơn” thì con quái vật chiến tranh đã nuốt chửng tôi vào trong bụng nó. Hệ lụy chiến tranh, hệ lụy sau chiến tranh và những hệ lụy nối tiếp hệ lụy đã dẫn đưa tôi vào một cuộc quay cuồng hơn 50 năm ít khi nào có thì giờ ngoảnh nhìn lại quá khứ; và nếu có nhìn thì cũng đâu có thấy hết, nhớ hết những gì đời mình đã trải qua.

 

Trong cái cô quạnh của căn phòng giờ chỉ còn mình tôi, những trang sách, những dòng chữ của “Người Vợ Cô Đơn” nhập nhoạng ma trơi như những đêm không ngủ của nhân vật chính Thérèse, khi nàng  đứng trơ trọi ở cửa sổ nhìn những rặng thông lấp loáng giữa bóng tối đặc quánh đến độ có thể lấy tay sờ được.

 

Còn Thérèse của tôi ở ngoài đời, một Thérèse có thực, bằng xương bằng thịt và những mặn nồng có thực hay nói cách khác, một hạnh phúc có thực (mà nhân vật trong tiểu thuyết không hề tin là nó có thực)? Có một lần – nhiều năm về sau – tôi nhìn thấy nàng đi trên đường phố đông đúc của Sài Gòn, cũng vẫn với vẻ mặt đăm chiêu suy tưởng như ngày nào. Tôi không ngỏ lời chào hỏi, vì không thể. Còn nàng, nàng có nhìn thấy tôi không? Lúc ấy, tôi không muốn biết (nhưng giờ đây, tôi lại muốn biết).

 

Ngay trong đêm, tôi đã có được trong tay hai ấn bản khác của Thérèse Desqueyroux: Nguyên tác tiếng Pháp do nhà xuất bản Le Livre de Poche in năm 1972 và bản chuyển ngữ tiếng Anh của Raymond N. MacKenzie do nhà xuất bản Sheed & Ward in năm 2005.

 

Trước mặt, trên màn hình chiếc máy đọc, 3 tác phẩm có hình bìa mang một khuôn mặt phụ nữ, đôi mắt đăm đăm nhìn tôi, như một thôi thúc?

 

Thôi thúc gì?

 

Như Proust, đi tìm một thời gian đã mất?

 

Trong thời gian đã mất, mọi sự vật, sự kiện đều bị đóng băng. Mùi vị chiếc bánh Madeleine, một trăm năm trước, một trăm năm sau, vẫn là mùi vị đó. Cùng lúc, tôi liên tưởng đến hình ảnh người ta hãi sợ khi nghĩ đến sẽ gặp lại một người quen cũ ngoài đời: Hình ảnh cô gái diễm kiều của 50 năm trước và hình ảnh bà cụ già lụ khụ của 50 năm sau [hẳn sẽ giết chết tươi gã đàn ông (già).]


Và ngay trong khoảnh khắc của nốt nhạc chết người còn vang vọng trong tim, tôi nhận ra ý nghĩa thôi thúc của ánh mắt đang nhìn tôi đăm đăm. Nàng muốn được sống lại ngày xưa một lần nữa. Và vì là một nhân vật của tiểu thuyết, nàng vẫn mãi mãi tuổi thanh xuân, không phải bà già lụ khụ như tôi (và mọi người) lo sợ. Tôi đã được nàng trấn an.

 

Và một điều sâu thẳm trong lòng: tôi muốn được gặp lại người xưa (không phải ở ngoài đời có thể tôi sẽ chết ngay khi gặp nàng). Hay, chính tôi muốn sống lại ngày xưa một lần nữa, một ý muốn còn mãnh liệt hơn cả ý muốn của nàng. Để thực hiện ước muốn mãnh liệt đó, tôi sẽ kể lại câu chuyện “của chúng tôi”, bằng thứ ngôn ngữ của riêng tôi và qua mùi vị những hồi ức cháy bỏng của riêng tôi.

 

Và quả thực, trong suốt thời gian thực hiện bản chuyển ngữ, tôi đã sống lại được nỗi đam mê của thời trai trẻ, đã đắm chìm trong những trang sách với cảm giác hạnh phúc rất hiếm hoi ở một người (già) như tôi. Cảm giác ấy vẫn còn, kể cả khi tôi ngồi viết những dòng “tâm sự” này.

Để cho trọn vẹn, nói đến cái riêng thì cũng phải nói cái chung.

 

Không thể chối cãi được rằng, Mauriac là một nhà văn có tầm ảnh hưởng bao trùm cả châu Âu, một phần đất văn hóa quan trọng của thế giới. Ông lại còn là một tác giả đoạt giải thưởng Nobel về Văn Chương (1952). Trong số mấy chục quyển tiểu thuyết, kịch và khảo luận của Mauriac, Thérèse Desqueyroux là tác phẩm hay nhất, có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất và được bàn cãi đến nhiều nhất (độc giả sẽ được đọc thêm về chi tiết này trong phần GIỚI THIỆU tác phẩm của dịch giả bản Anh ngữ, Giáo sư Raymond MacKenzie). Tác phẩm đã được thực hiện thành phim hai lần.

 

Lần thứ nhất, vào năm 1962, đạo diễn Georges Franju và nữ diễn viên Pháp Emmanuelle Riva vào vai Thérèse. Lần thứ hai, vào năm 2011, đạo diễn Claude Miller và nữ diễn viên Pháp Audrey Tautou vào vai Thérèse.

 

Thế nên, nhân cơ hội này tôi được dịp giới thiệu lại với độc giả trẻ Việt Nam, một tác phẩm kinh điển vẫn còn sống sót dù trải qua 5 thế hệ nhân loại. Về hình thức, Thérèse Desqueyroux vẫn không hổ danh một điển hình bậc thầy của văn học Pháp, của văn học châu Âu. Những trang văn đẫm tính thi ca của tác phẩm đã cuốn hút người đọc đến độ không nhớ, không quan tâm rằng nó ra đời từ hồi đầu thế kỷ 20.

 

Về nội dung, hình tượng nhân vật Thérèse vẫn còn là một ám ảnh khôn nguôi cho những tâm hồn dám đi ngược dòng đời, những con người còn bị bao vây bởi ý niệm cô đơn là số phận của con người, nhất là phụ nữ.

 

Quanh đây, tôi vẫn còn nhìn thấy nhiều Thérèse Nguyễn, Phạm, Lê, Lý, Trần với những hàng rào vô hình rất khó nhận ra (để vượt qua, để đạp đổ). Chưa kể đến rất nhiều những Bernard Desqueyroux (nhân vật người chồng của Thérèse Desqueyroux) còn nhan nhản, còn tự đóng khuôn tư tưởng mình (chính trị, văn hóa, xã hội…), còn muốn tỏ quyền sinh sát, quyền quyết định vận mệnh người khác và không biết rằng, để nhìn thế giới cho công bằng và trung thực, chúng ta còn cần phải biết cách nhìn bằng con mắt của người khác, những người khác, như Thérèse hằng ao ước khả năng đó ở người chồng.

 

Bản dịch tiếng Việt của nhà văn Mặc Đỗ, xuất bản những năm 1960s ở Sài Gòn, ra đời trong thời điểm chưa có những lợi ích nghiên cứu đa dạng như ngày nay – thời đại của internet, của con ma xó google và nhiều khả năng kỹ thuật khác – nên trong bản dịch này, tôi sẽ tận dụng tối đa những lợi ích nói trên trong lúc chuyển ngữ. Và rất nhiều điều tôi không biết, không hiểu trọn khi đọc “Người Vợ Cô Đơn” hơn 50 năm trước, nay tôi có cơ hội được biết, được hiểu khi làm công việc chuyển ngữ tác phẩm và sẽ chuyển đến độc giả Việt ngữ bằng những đoạn văn dịch (thoát) cùng với những chú thích (khi cần).

 

Một việc cuối cùng, tôi cần phải sòng phẳng và lương thiện với độc giả. Tôi chuyển ngữ tác phẩm dựa trên bản Anh ngữ của Raymond N. MacKenzie. Còn nguyên tác Pháp ngữ của Mauriac chỉ ở bên cạnh với giá trị tham khảo (khi cần đối chiếu). Sở dĩ như vậy là vì tôi không tự tin chút nào với khả năng đọc tiếng Pháp của mình. Mặt khác, bản của MacKenzie ra đời năm 2005, gần 80 năm sau khi nguyên tác xuất hiện, nên phần giới thiệu của MacKenzie (một học giả và giáo sư đại học) giúp ích rất nhiều cho việc chuyển ngữ và hiểu thấu tác phẩm.

 

Như thường lệ, một tác phẩm (dù là chuyển ngữ) ra đời đều có sự đóng góp, hay góp ý của những người ngoài tác giả (dịch giả). Trong trường hợp của tôi, tôi xin được gởi lời cám ơn tha thiết đến người phụ nữ năm xưa, người đã cùng tôi vào vai Thérèse Desqueyroux Jean Azevedo trong những buổi “ngồi đồng” hàng nhiều tiếng đồng hồ tại một quán cà phê trong chung cư Nguyễn Thiện Thuật, Sài Gòn. Chính hồi ức này đã cho tôi được sự say đắm cần thiết để hoàn tất công việc một cách thấu đáo và nghiêm túc, cùng với niềm vui biết mình không đến nỗi “vô dụng” lắm so với những huênh hoang của hơn 50 năm về trước. Giả như, do một tình cờ nào đó của số phận, người phụ nữ ấy vẫn còn sống và đọc được những dòng này, thì tôi không biết nói gì hơn ngoài niềm tin rằng đó chính là dấu hiệu của Thiên Hựu (Providence), của Mệnh Trời, một trong những ý đồ của François Mauriac khi viết quyển tiểu thuyết này.

 

T.Vấn

(Tháng 10/2022)


Để trực tiếp đọc tác phẩm, xin bấm vào đường dẫn sau:
 
François Mauriac: THÉRÈSE DESQUEYROUX (Tiểu Thuyết) – T.Vấn và Bạn Hữu (t-van.net)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tuần qua, nhà thơ Trịnh Y Thư vừa phát hành một sách mới nhan đề “Căn Phòng Riêng,” dịch từ nguyên bản tiếng Anh, Virginia Woolf, A Room of One’s Own, nxb Harcourt, 1991. Theo lời dịch giả Trịnh Y Thư, ấn bản 2023 của bản dịch để phổ biến ở hải ngoại là bản được sửa chữa và tăng bổ từ hai ấn bản đã in trong các năm 2009 và 2016 tại Việt Nam. Tập tiểu luận văn học này của Virginia Woolf (1882-1941) như dường trải qua gần 100 tuổi, vì sách ấn hành lần đầu là năm 1929, nhưng các vấn đề nêu lên đều rất mới, như vị trí người cầm bút nữ chỉ là bóng mờ trong ngôi làng của các nhà văn, hay yêu cầu của Woolf rằng người sáng tác phải lìa hẳn “cái tôi” khi cầm bút, hay người sáng tác văn học cần có “khối óc lưỡng tính [nam/nữ]” (nghĩa là lìa cá tính, hay lìa ngã thể?) -- nghĩa là tất cả những gì rất mực táo bạo đối với người sáng tác văn học Việt Nam.
Thu hút sự chú ý của công chúng về tính quyết định của thời điểm lịch sử hiện tại, Ahmed giới thiệu một lý thuyết phê bình về giải phóng xã hội dựa trên các phong trào cách mạng hậu Xô Viết đã nổi lên bên lề trật tự xã hội toàn cầu. Sự gia tăng của các phong trào loại trừ xã hội và chính trị ở nhiều nơi trên thế giới, khủng hoảng sinh thái đang diễn ra, phân biệt chủng tộc chống người Da đen và sự cụ thể hóa của sự tuyệt vọng do đại dịch COVID-19 mang lại đòi hỏi một cách tiếp cận mới đối với cuộc cách mạng, mà Ahmed lập luận, phải được bắt nguồn từ kinh nghiệm của những người bị áp bức nhất trong xã hội.
Nói chung "bật khóc" vì nhiều lý do …. Trước khi đề cập chi tiết hơn về bài thơ tôi mạn phép giới thiệu sơ về Lão Thi Sĩ Trần Công. Theo internet thì tác giả người Gò Công, từng là Trung Tá Cảnh sát Quốc Gia Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và hiện định cư tại Hoa Kỳ.
Suốt thời gian gần trăm năm qua, từ ngày xuất bản năm 1929, cuốn Căn phòng riêng của Virginia Woolf vẫn được xem là tập tiểu luận văn học có tầm ảnh hưởng rất lớn bởi tính cách đặt vấn đề của nó. Nó là cuốn sách được nhật báo Le Monde của Pháp quốc xếp hạng thứ 69 trong số 100 cuốn sách hay, giá trị, đáng đọc nhất thế kỷ XX. Kỳ thực, nó là cuốn sách đặt nền móng cho Nữ quyền luận trong hai lĩnh vực tư tưởng và phê bình văn học. Cuốn sách được hình thành dựa trên loạt bài thuyết trình Woolf đọc trước cử tọa toàn phái nữ tại hai trường cao đẳng dành riêng cho phụ nữ, Newham và Girton, thuộc trường đại học danh tiếng Cambridge của Anh quốc, vào năm 1928, xoay quanh chủ đề “Phụ nữ và sáng tác văn học.”
Cuốn tiểu thuyết này mổ xẻ tình bạn mãnh liệt giữa hai cô gái mười ba tuổi, Agnès và Fabienne, ở vùng nông thôn nước Pháp thời hậu chiến. Họ tự tin mình “đủ tuổi để làm mọi thứ”, họ bão hòa sự nhàm chán bằng những kế hoạch càng ngày càng phức tạp. Fabienne bắt đầu đọc những câu chuyện kinh dị cho Agnès, và sau đó thiết kế ấn phẩm của họ dưới tên của Agnès. Agnès được tôn vinh là một đứa trẻ thần đồng và cuộc đời cô bắt đầu một quỹ đạo mới. Câu chuyện mở ra khi Agnès nhìn lại, bây giờ cô đã 27 tuổi và sống ở Pennsylvania, nghe tin Fabienne chết. Những hồi ức của cô ấy về tình bạn và sự phấn đấu của cô với sự nổi tiếng, được kể lại tự nhiên theo giọng điệu thanh tao, được nhấn mạnh bằng những mô tả sắc bén về niềm tin của tuổi vị thành niên.
Quyển thơ có 18 bài trong 50 bài được thầy Tuệ Sỹ viết bằng Hán tự trong thời gian bị bắt giam lần thứ nhất hơn 2 năm (1978-1981)...
Bất ngờ, tôi mới nhận ra rằng GS Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ. Bởi vì một thành kiến tôi có từ lâu, một học giả thường không làm thơ. Trước giờ tôi vẫn nghĩ rằng GS Nguyễn Bá Chung là một nhà giáo, một nhà nghiên cứu, và là người dịch sang tiếng Anh nhiều bài thơ thời Lý, Trần và thời Lê, Nguyễn --- và đó là những gì tôi từng chú ý nhất, khi đọc hai bản Anh dịch của họ Nguyễn: tập “Ly Tran Zen Poems” (nxb Văn Hóa Sài Gòn, 2005, tái bản 6/2007) và “Le Nguyen Zen Poems” (nxb Hội Nhà Văn 6/2019). Lúc đó, tôi không chú tâm về những sách khác do GS Nguyễn Bá Chung (NBC) dịch, như tiểu thuyết, truyện, thơ… Và rồi một bất ngờ, khi tôi khám phá ra Nguyễn Bá Chung cũng là một nhà thơ rất mực lãng đãng Thiền học, thơ mộng tột vời.
Nhân đọc tập thơ Tiểu Khúc của Tôn Nữ Thu Dung, Tương Tri xuất bản.
Chúng ta chỉ ngưng lại một khoảnh khắc để hình dung ra mùa Giáng Sinh và năm Mới sắp tới này ở đất nước Ukraine sẽ như thế nào? Có bao nhiêu cha mẹ mất con, bao nhiêu em bé mất cha mẹ, có bao nhiêu phụ nữ mất chồng. Sẽ không có quà tặng, không có thành phố chăng đèn, không tiếng cười, không hoa, không nến… Vẫn có tiếng súng, tiếng nổ và thật nhiều tiếng khóc của các bà Mẹ, người vợ, người chồng, trẻ em…
Chiến tranh Ukraine đã gây tang tóc và mất mát cho hàng triệu gia đình, đảo lộn thế giới và đời sống của biết bao trẻ em. Chiến tranh giết chết cha, mẹ, bạn bè, láng giềng, nhưng không giết được niềm ước mơ mãnh liệt trong lòng trẻ thơ, nhất là vào mùa Giáng Sinh. Tổ chức “Hope and Homes for Children” một tổ chức vô vụ lợi chuyên giúp trẻ em đã hỏi các em ước gì mùa Giáng Sinh năm nay, và sau đây là những gì các em chia xẻ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.