Hôm nay,  

Trường phái rút ví chậm

28/07/202300:00:00(Xem: 4010)

 

Khanh-Truong
Khánh Trường

 

Trong tiểu thuyết kiếm hiệp của Kim Dung, tôi thích nhất nhân vật Hồng Thất Công, bang chủ Cái Bang (kế thừa là Kiều Phong), ông già tính khí trẻ con.

Tôi thích vì rất hợp tạng.

Nói cách khác, tôi rất sợ những chuyện nghiêm túc. Ở đây bạn đọc sẽ bắt gặp mọi chuyện: chính trị, xã hội, kinh tế, văn chương, thi ca, nghệ thuật…, kể cả những chuyện tầm phào như gái trai, rượu chè hoang đàng nhăng nhít... Nói gọn, mảnh vườn "Ba Điều Bốn Chuyện" này luôn rộng cửa, bạn đọc hãy cùng tôi rong chơi.

  
*

Xét theo học vị, họ bình thường, nếu không muốn nói, chả có gì đặc biệt đáng quan tâm.

Nhưng cả hai lại là những tài năng kiệt xuất.

 

Người thứ nhất, nhà văn Mai Thảo, tác giả của trên 50 tác phẩm, bao quát nhiều thể loại, tùy bút, truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện dịch, phóng tác, biên khảo, nhận định… Đầu tàu tạp chí Sáng Tạo, dấu mốc mở đường cho dòng văn học tự do sau 1954 tại miền Nam Việt Nam. Là tổng thư ký tạp chí Văn cùng nhiều báo khác trước 1975 tại quê nhà, và sau này tại hải ngoại. Là ông vua viết phơi-dơ-tông, một ngày không dưới 6 cái, trên các nhật báo, chưa kể những bài viết xuất hiện thường xuyên ở mọi diễn đàn chữ nghĩa.

 

Mai Thảo viết dễ dàng, nhanh. Văn chương lóng lánh, chữ nghĩa trau chuốt, rất riêng. Một mình một cõi, không lẫn với ai. Người đọc có thể thích hoặc không, nhưng một điều khó phủ nhận, chỉ cần lướt qua năm bảy dòng, chúng ta biết ngay tác giả là ai. Để tạo ra dấu ấn đặc thù đó tất nhiên không dễ.

 

Người thứ hai, nhạc sĩ Phạm Duy, chủ nhân của cả ngàn bài hát thuộc mọi chủ đề, quê hương, chiến tranh, tình yêu, tâm ca, tục ca, đạo ca, thiền ca… Phù thủy trong lĩnh vực biến các thi phẩm thành những ca khúc lẫy lừng. Thơ của các thi sĩ Nguyễn Tất Nhiên, Phạm Thiên Thư, Minh Đức Hoài Trinh, Nhất Tuấn…, qua người nhạc sĩ tài hoa này, được chắp thêm cánh, bay xa hơn, cao hơn.

 

Trong một cuộc phỏng vấn cách đây hơn 50 năm tại Sài Gòn, ký giả hỏi,

“Ông sáng tác thế nào?”

Phạm Duy cười,

“Như đi đái ấy mà!”

Đi đái. Phạm Duy muốn nói, ông sáng tác dễ dàng như hành động bài tiết. Quả thế, tôi từng chứng kiến, chỉ chưa đến nửa giờ, ông phổ thơ của một thi sĩ thành ca khúc, giai điệu mượt mà, trữ tình, tha thiết.

Hai người xuất hiện cùng thời. Mỗi người một cõi. Không khác hiện tượng thiên nhiên, họ làm ra gió, tạo nên bão trong môi trường thủ đắc.

 

Là người Việt Nam, không ai không biết đến họ.

 

Nhưng hai thiên tài hai tính cách, hai phong thái sống.

 

Mai Thảo tay chơi có hạng. Di chuyển bằng xe hơi (Mustang). Mỗi ngày một bao thuốc, một chai cỏ-nhắc. Hàng đêm nhẵn mặt ở các vũ trường, cặp kè với những bóng hồng trong thế giới đèn màu. Mặt lạnh như thép nguội trên các chiếu bạc. Xài tiền hào sảng. Là một trong số không nhiều những nhà văn sống thuần bằng chữ nghĩa một cách phong lưu. Độc thân cho đến lúc về với đất.

 

Phạm Duy, người chồng, người cha mẫu mực (dù, như hầu hết mọi tài hoa khác, nhiều nhan sắc đã ghé qua trong đời Phạm Duy). Tôi từng đến nhiều lần nhà ông ở Midway City (Thị Trấn Giữa Đàng- chữ của ông), căn nhà tuy nhỏ nhưng nhờ có sân sau rộng. Lợi dụng ưu điểm này, ông ép thêm nhiều phòng, làm nơi trú ngụ của vợ chồng và các con, người chưa lập gia đình, người có chồng, có vợ. Tất cả, con cái dâu rể, đều sống chung dưới một mái nhà. Chị Thái Hằng, phu nhân Phạm Duy, có thể xem như quản gia, quán xuyến mọi chuyện. Người đàn bà này, theo nhận xét của tôi, là điển hình tiêu biểu cho phụ nữ Việt Nam, một đời vì chồng vì con.

 

Tôi từng ở gần Mai Thảo thời gian dài, chứng kiến sinh hoạt thường nhật của ông. Mỗi ngày, buổi sáng thức dậy làm vệ sinh xong, thay bộ quần áo mới, áo sơ mi tay dài, cài khuy tươm tất. Đến bật lò điện đun nước pha cà phê, trà. Ra ngồi vào bàn, cầm cây bút, kéo xấp giấy lại gần, vừa nhấm nháp vừa viết. Những con chữ nối đuôi nhau làm đầy trang, ngay hàng thẳng lối, sạch sẽ, rõ ràng, gần như không tẩy xóa.

 

Nhắm chừng vừa đủ cho số chữ mục Sổ Tay của tạp chí Văn, Mai Thảo ngừng viết, vói tay cầm chai rượu rót vào chiếc ly trống, nâng lên miệng nhấp một ngụm nhỏ. Uống hết ly rượu, ông bắt đầu công việc khác, viết tên địa chỉ độc giả dài hạn trên ngót nghìn phong bì màu vàng hôm qua ông đã dán tem. Đỗ Ngọc Yến, giám đốc sáng lập công ty Người Việt, tờ nhật báo lớn nhất tại hải ngoại, nhiều lần đề nghị Mai Thảo giao danh sách độc giả dài hạn cho nhân viên đả tự của công ty vào computer, đến kỳ in ra label, dán vào phong bì, chỉ mất độ một hai tiếng là cùng, vừa đỡ tốn thì giờ, vừa sạch sẽ, tiên tiến. Mai Thảo lắc đầu. Lý do, tuy mất công (trung bình trên dưới ba ngày ông mới viết xong gần 1.000 địa chỉ) nhưng khi độc giả nhận được báo, họ nhìn nét chữ thân quen, cảm được tấm lòng trân trọng của ông với họ. Nhờ vậy độc giả gắn bó lâu dài với tờ báo.

 

Tôi cũng từng đến nhà và “mục sở thị” căn phòng làm việc tuy nhỏ, bày biện đơn sơ nhưng rất ngăn nắp, sạch sẽ của Phạm Duy. Một bàn gỗ không lớn lắm, trên mặt bàn ngay ngắn tập giấy trắng. Sát tường, bên cạnh, là một tủ sách, hai ngăn trên cùng sắp đầy sơ-mi chứa rất nhiều hình ảnh, tư liệu qua từng thời kỳ, lúc còn trẻ, theo kháng chiến, về thành, vào Nam, đi hát, đám cưới của ông và chị Thái Hằng, cũng như các con… Nhờ những tư liệu, hình ảnh phong phú, Bốn cuốn Hồi Ký Phạm Duy được hình thành dễ dàng.

Tuy hai nhân vật này có chung mẫu số là rất nghiêm túc trong công việc (phong thái của những tài năng thực sự, khác xa với những thiên tài dỏm thời nào, ở đâu cũng nhan nhãn), nhưng lai rất… kỵ nhau trong đời sống.

 

Kỵ, phải thôi.

 

Tôi kể các bạn nghe hai chuyện tiêu biểu nói lên cá tính khác biệt của hai người.

 

Có lần nhà văn Trần Vũ từ Pháp sang chơi. Chúng tôi bày cuộc nhậu. Suốt buổi tôi ít cười nói như thường khi, Mai Thảo hỏi,

“Sao hôm nay cậu táo bón thế?”

“Em đang rầu thối ruột.”

“Chuyện gì?”

“Nhà in vừa gọi bảo báo đã in xong, đến lấy, nhưng em gom chưa đủ tiền!”

Mai Thảo cười mỉm,

“Tưởng chuyện gì.”

Rồi chồm người rút từ dưới gối trên đầu chiếc gường sắt kề bên một cọc tiền mỏng,

“Còn thiếu bao nhiêu?”

“Bảy trăm anh.”

Cọc tiền ít, Mai Thảo đưa tôi bảy, chỉ còn lại 2 trăm. Tôi nói,

“Anh cũng sắp lấy báo, rồi làm sao?”

“Tính sau, cậu cần, xài trước đi.”

Tôi nhủ thầm lấy báo về, gửi đi xong, tôi sẽ đến các nhà xuất bản nhận một số bìa sách, vẽ gấp lấy tiền bù lại. Đây không phải lần đầu Mai Thảo đưa tiền cho tôi, thỉnh thoảng chúng tôi vẫn chia nhau những đồng tiền ít oi có được, nếu một trong hai sạch túi. Mai Thảo xem nhẹ tiền bạc, tiêu xài rộng rãi và rất tế nhị. Vào hàng quán ông thường nhắc bọn chúng tôi, dù ông chỉ uống, hầu như không ăn,

“Gọi món đi chứ, nhiều vào, chúng mày mang rượu đến nhậu, không gọi, người ta uống nước lã phục vụ à?”

Phạm Duy khác. Một hôm Ông gọi cho tôi,

“Tớ vừa xong mười bài Thiền ca. Cậu vẽ bìa và viết cho tôi một bài nhé?”

“Vâng ạ.”

Hai mươi ngày sau CD ra lò với hình bìa rất… thiền, một nhánh cây trơ trọi trên nền xám nhạt, và đã phát hành toàn cầu, bài viết tôi cũng đã viết xong, đi trên Hợp Lưu số mới nhất. Phạm Duy lại gọi,

“Sáng mai tớ mời cậu đi ăn nhé.”

Tôi hí hửng khoe với vợ,

“Anh Phạm Duy mời anh đi ăn, thích quá.”

“Ông ấy mời, chuyện lạ.”

“Anh vẽ bìa, còn viết bài tán tụng, công không nhỏ.”

Sáng hôm sau Phạm Duy đến nhà chở tôi ra Laguna Beach, cách Sài-Gòn-nhỏ khoảng 45 phút xe. Đến nơi, ông ghé vào một tiệm bánh, mua hai ly cà phê và hai bánh donus to go. Tôi theo ông ra ngồi ngoài ghế đá sát bờ biển, vừa thưởng thức “bữa tiệc” vừa nghe người nhạc sĩ tài hoa nói về mười nhạc phẩm vừa trình làng với đôi chút hài mãn.

Sau hôm đó, tôi kể cho Mai Thảo nghe về “bữa tiệc” khoản đãi của Phạm Duy, anh cười,

“Cái thằng rút ví chậm!”

Tôi thắc mắc,

“Là sao?’

Mai Thảo giảng,

“Ở Sài gòn tôi thường đi ăn nhậu với nhiều thằng. Có thằng đến lúc trả tiền nhanh nhẩu lên tiếng, để moi, và thò tay ra sau móc ví, khổ nỗi móc mãi không được, đến khi người  khác thanh toán xong hắn mới càm ràm, các cậu kỳ quá, đã bảo để moi lo mà. Đấy, Phạm Duy thuộc trường phái rút ví chậm.”

 

Khánh Trường

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…
Trong cuộc sống của chúng ta cũng thường gặp phải bao chuyện xảy ra họa (rủi ro) và phúc (may mắn). Khi có người bị họa thì lấy thành ngữ “Tái ông thất mã” nghĩa Hán Việt: Tái là “cửa ải”, Ông là “ông lão, ông già”, Tái ông là “ông già sống gần biên ải” ám chỉ khi người gặp họa trước thì may mắn được phúc sau. Thông thường thì thành ngữ nầy chí với tự bản thân để an ủi. Trong Tự Điển Hán Nôm thì phúc và phước viết giống nhau. Theo cách gọi miền Bắc là phúc, Trung và Nam là phước. Với phước, họa thì khôn lường được. Câu nói Lưu Hướng trong Thuyết Uyển “Phúc bất trùng chí, họa tất trùng lai”, phúc chỉ may mắn một lần, họa thì liên miên. Hay “Phúc vô song chí, họa bất đơn hành”.
“Vắng chủ nhà gà vọc niêu tôm. Vắng chủ nhà gà mọc đuôi tôm”: Khi không có người chỉ huy, kẻ xấu làm bậy. “Gà tức nhau vì tiếng gáy”: Tính ganh đua, đố kỵ, không chịu kém người khác. “Chó cậy gần nhà, gà cậy gần chuồng”: Cậy thế ỷ lại, bắt nạt người khác. “Khôn ngoan đối đáp người ngoài. Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau”: Khuyên bản thân có bản lãnh thì ra ngoài xã hội, anh chị em trong nhà nên đoàn kết, gắn bó với nhau cùng nghĩa tương tự như “Gà nhà lại bới bếp nhà”: Chê cùng phe cánh lại phá hoại lẫn nhau. “Gà què ăn quẩn cối xay”: Chê những người không có ý chí. “Học như gà đá vách”: Chê những người học kém. “Lép bép như gà mổ tép”: Chê người ngồi lê mách lẻo. “Lờ đờ như gà ban hôm”: Quáng gà, chê người chậm chạp, không hoạt bát
Câu nói để đời của TT Nguyễn Văn Thiệu: “Làm kẻ thù của Mỹ thì dễ, làm bạn với Mỹ thì rất khó”. Làm kẻ thù với Mỹ chỉ trực tiếp đối đầu còn làm bạn với Mỹ phải chấp nhận yêu sách, quyền lợi của Mỹ… nếu không sẽ bị “đá giò lái, đâm sau lưng” và có lúc bị bán đứng đất nước!
Tuổi 18 có thực sự là ngưỡng cửa của trưởng thành? Không ai lớn lên giống ai, và hành trình trưởng thành cũng chẳng thể đo đếm bằng một con số. Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với cột mốc 18 tuổi – độ tuổi mà luật pháp nhiều nơi, bao gồm Hoa Kỳ, công nhận một cá nhân chính thức bước vào tuổi trưởng thành và phải chịu trách nhiệm hình sự như người lớn. Thế nhưng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở đó.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.