Hôm nay,  

Ma

25/08/202300:00:00(Xem: 3547)

Logo cho fb  
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
   
Trong cơn đại dịch Covid-19 đã hoành hành, nhờ vaccine, căn bệnh được kiểm soát tốt, tuy vậy tất cả chúng ta đều ít nhiều bị tổn thương. Người thì mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất con, mất họ hàng, bè bạn… Kẻ bị áo cơm quật đập tơi tả. Kẻ khác công ăn việc làm lụn bại... Đều là những chuyện buồn.
   
Đã buồn lại phải nghe điều bất ưng, khác nào lấy dao nhọn khoét thêm vào vết thương còn tươm máu?
   
Cho nên tôi sẽ không đề cập đến chuyện buồn làm chi, có điều chuyện tôi sắp kể hẳn nhiều người khó tính sẽ bảo tôi thuộc thành phần vô đạo đức.
   
Đành chịu, không thể vừa lòng tất cả!
   
Ngày ấy tôi mới ngoài hai mươi, không đẹp trai, tài hoa và chữ nghĩa bề bề như một số người tôi may mắn quen biết. Được cái tôi không ghét bỏ ai bao giờ, nhất là với phái nữ tôi luôn nhường nhịn và… dễ thương (vì thế bạn bè vẫn cho rằng tôi thuộc trường phái dại gái!) Xét chung, tôi vô hại. Tuy vậy, khách quan nhận xét, tôi cũng có nhược điểm là hơi nóng tính. Phàm những người nóng tính thường phổi bò, ruột để ngoài da, khi giận sùng sục tựa nước sôi, song nguội ngay như bị ném vào phòng lạnh! Nhược điểm này xét mặt nào đó, lại là ưu điểm, loại người như tôi chắc chắn không mưu mô quỉ kế, khỏi mất công đề phòng. Có lẽ nhờ thế phái nữ, vốn rất đa nghi song dễ mềm lòng, thường dành cho tôi nhiều thiện cảm.
   
Và họ cụ thể thiện cảm ấy bằng cách cho không biếu không những quả tình lãng mạn.
   
Chuyện tôi sắp kể, có phần… liêu trai chí dị. Tuy nhiên biết đâu sẽ giúp mọi người một phút quên đi bao nhiêu bất ưng trong cõi nhân sinh lắm đa đoan này.
   
Sau nhiều tuần ra sức tán tỉnh, cuối cùng tôi thuyết phục, đưa được một nàng xuống miệt Thủ Thiêm. Mặt ngoài: thư giãn, tạm tách lìa khỏi cảnh xô bồ và khói xe, tiếng động của thành phố; Mặt trong: (chỉ mình tôi biết) tạo điều kiện để thừa cơ… nước đục thả câu! Chao ôi, cho đến bây giờ tôi vẫn chưa quên cảnh đắm đuối dưới bóng sầu riêng, cạnh dòng kinh nở đầy hoa súng. Thơ mộng và… hiện thực như phim diễm tình Romeo and Juliet cộng mùi tình dục hiện sinh kiểu  Một Chút Mặt Trời Trong Nước Lạnh.
   

Tối, tôi đưa nàng về. Nhà nàng ở ven đô, nếu đi đường lớn mất chừng sáu mươi phút, nếu sử dụng đường tắt chỉ ngót nửa giờ, khổ nỗi đó là một hương lộ đầy ổ gà, băng ngang bãi tha ma hoang vắng, hầu như ít ai dám đi vào ban đêm. Để tỏ ra ta đây thừa đởm lược, tôi đề nghị,

“Mình về đường tắt nhé?”
Nàng la bai bải, “Đừng anh ơi, em sợ.”
Tôi hùng hổ, “Có anh đây, sợ gì.”
Nàng bấu mạnh vai tôi, “Nghe nói nghĩa địa này nhiều ma lắm.”
“Ma với quỉ, nhảm nhí.”

Mặc cho em cản ngăn, tôi vẫn ngoan cố rẽ vào.

Đường tối, bụi bờ nhấp nhô, mồ mả ngổn ngang cao thấp vô trật tự. Những bụi xương rồng tựa những bàn tay vói lên từ lòng đất. Khóm lau bông trắng ngả nghiêng trong gió trông giống những mái đầu bạc vật vã khóc than. Hàng vạn đốm lân tinh lượn lờ trên những phần mộ. Nàng ôm cứng tôi, lạc giọng, “Anh ơi… em sợ.”
   
Tôi không trả lời, chăm chú điều khiển chiếc honda vượt qua khoảng đường xấu. Xe vào đến trung tâm bãi tha ma thì trời chuyển mưa, mây đen ùn ùn phủ kín bầu trời, sấm chớp đì đùng. Thoáng chốc mưa ập xuống, xối xả. Nàng nói như muốn khóc, “Chết rồi anh ơi, làm sao?” Tôi đảo mắt, một nhà mồ lớn xây kiên cố bằng bê-tông có mái che rộng, chỉ cách lộ non mười mét, tuy bề thế nhưng hình như không người chăm sóc, lau sậy um tùm. Vừa cho xe tấp vào, tôi vừa nói, “Mình trú dưới mái che này.”
   
Nàng mếu máo, “Em sợ!”
Tôi trấn an, “Đã bảo có anh, không việc gì phải sợ.”
Tôi dìu em ngồi xuống gờ xi-măng cạnh mộ bia, nơi khô ráo và khuất gió. Em ôm chặt tôi, luôn mồm, “Em sợ…”

Tôi, ngày ấy, rất vô thần. Không tin những gì nếu không sờ được bằng tay, nhìn thấy tận mắt. Cũng có nghĩa chuyện ma quỉ, với tôi, chỉ là sản phẩm tưởng tượng, nhằm hù dọa trẻ con và bọn yếu bóng vía, nên thay vì sợ tôi lại cảm thấy máu chảy loạn trong huyết quản khi được nàng ôm chặt. Da thịt nàng mát lạnh, mùi thơm con gái xộc vào mũi. Tôi ngất ngư, con lợn lòng vùng lên đòi quyền tự trị. Hai bàn tay tôi chu du khắp mọi  ngõ nghách trên body nàng.

“Đừng anh, em sợ!”
Điệp khúc vẫn không ngừng mãi đến khi tôi vật em ngã ngửa trên tấm “đanh” đậy mộ phần, nàng lắp bắp, “Đừng… anh…”
Mặc. Nàng co giật tựa động kinh, tiếng kêu thấp dần cường độ. Tôi trườn lên, thì thầm, “Anh yêu nhé?”
Nàng ậm ự, lặp lại điệp khúc, “Thôi anh… em sợ…”
Tuy vậy, nàng không chống cự quyết liệt, tôi chiếm cứ được mục tiêu tương đối dễ.
Đến lúc trong vô thức, nàng ôm siết, nhưng thay vì “anh ơi, em sợ.” Bây giờ nàng bỏ bớt hai từ “em sợ”, chỉ giữ hai từ “anh ơi… anh ơi…” Tôi nói như máy, “Anh yêu em.”

Tiếng mưa rì rào trên mái nhà mồ, tiếng gió gào rú, và những đốm lửa lập lòe ngoài nhấp nhô mồ mả khuất lấp giữa cỏ cây, lau sậy, tiếng sét đì đùng lóe sáng trên bầu trời vần vũ mây đen tạo thành một âm thanh, hoạt cảnh vừa ma quái vừa quyến rũ. Đến một lúc huyết quản rần rật dưới da, và rồi… tôi thốt kêu, “Cưng ơi…”

Nàng ôm tôi chặt hơn, hổn hển, “Anh… anh… anh… anh…”

Một lúc sau, cơn “địa chấn” dần hạ, nàng bừng tỉnh, nhẹ đẩy tôi ra, ngồi dậy, nhìn quanh hoạt cảnh rất liêu trai chí dị, vẻ sợ hãi, “Tội lỗi quá anh ơi!”

Tôi nhớ chân dung người đàn ông quá cố có nụ cười hiền đã nhìn thấy qua tia sấm chớp khi đang hành sự, lòng hơi lung lạc, tôi thầm khấn, “Mong ông linh thiêng thứ lỗi, ông biết mà, làm sao đừng được.”

Một con chồn từ đám lau sậy phóng ra, hai con mắt rực sáng tựa hai đốm lân tinh nhìn chúng tôi hồi lâu rồi lủi nhanh, mất hút phía sau bia mộ. Nàng lại ôm tôi, “Anh ơi… em sợ…”
 
– Khánh Trường

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tuần này tôi đi tiễn một anh bạn đồng tuế vừa nằm xuống. Gọi là đồng tuế nhưng anh nhỉnh hơn tôi một tuổi. Thấy anh nằm thảnh thơi, bạn bè mừng cho anh. Mừng vì anh chỉ bị cảm có một tuần rồi nhẹ nhàng ra đi. Đi như vậy là phúc. Mấy ông bạn già ai cũng khen vậy. Cái chết hình như thân cận với những người đã quá luống tuổi. Họ đã nhờn với anh thần chết. Nhớ: Nguyễn Xuân Hoàng những ngày cuối của căn bệnh ung thư cột sống đã nhắn tin cho tôi: “Tao không sợ chết, chỉ sợ đau”.
Kỹ thuật về điện thoại di động đã tạo điều kiện cho mọi người có thể lưu lại hình ảnh hoặc một sự kiện nào đó đang xảy ra của hiện tại. Những sự ghi lại này đã góp phần tốt trong việc tìm ra những sự việc sai trái của cá nhân hay của tổ chức nào đó hầu đưa ra ánh sáng của tòa án. Tuy nhiên có những trường hợp không nên dùng phương tiện điện thoại di động để thu lại hình ảnh và đưa lên mạng xã hội. Điều này ít ai để ý đến và có thể làm nguy hiểm đến một cá nhân nào đó. Hãy nhìn ở một góc nhìn rộng lớn để cùng nhau bàn thảo cho chủ đề này.
Bạn tôi, nhà thơ Triều Hoa Đại ấn hành tác phẩm Lên Rừng Đếm Lá. Nhân dịp nầy, người bạn vong niên từ thời ở Đà Nẵng - Lê Bảo Hoàng (nhà thơ Luân Hoán) - hai nhà thơ thực hiện cuộc trò chuyện với nhau. Theo Triều Hoa Đại thì khi rời bỏ đất nước ra đi, hình như một số anh, chị em trong đó có tôi đã bỏ “của” mà chạy lấy người nên đã không đem theo được một tác phẩm nào…
Chiếc British Airways khởi hành lúc 10 giờ đêm từ phi trường Trudeau, Montreal Canada, bay hai tiếng rưỡi đến Heathrow, London (LHR), nằm ở phía Tây London, cách trung tâm thành phố 23km, là một sân bay bận rộn nhất Châu Âu với hàng triệu lượt khách mỗi năm; chúng tôi chờ ở đây hai tiếng rưỡi, rồi bay tiếp thêm 7 tiếng rưỡi nữa để đến Madrid, thủ đô của Tây Ban Nha (Spain). Madrid đi trước Montreal 6 tiếng vào mùa đông và 5 tiếng vào mùa hè bắt đầu vào cuối tháng 3 đến cuối tháng 10.
Ngày thứ bảy 15/3/2025 vừa qua, các nhân viên làm việc cho các đài phát thanh Tiếng Nói Hoa Kỳ VOA và đài Á châu Tự Do RFA khi tới sở đã nhận được lệnh nghỉ hành chánh, phải ra về và nộp lại thẻ báo chí. Báo chí cho biết đây là khởi đầu cho tiến trình phẹc mê bu tích các đài phát thanh này. Giám đốc đài VOA Michael Abramowitz lập tức ra tuyên bố: “Tôi vô cùng đau lòng khi lần đầu tiên sau 83 năm, đài VOA lừng lẫy không được phép lên tiếng. Sáng nay tôi mới hay tin gần như toàn bộ nhân viên VOA, hơn 1.300 nhà báo, nhà sản xuất và nhân viên bị cho nghỉ hành chánh. Tôi cũng không phải ngoại lệ”. Ngoài đài VOA, đài Á Châu Tự Do RFA cũng cùng chung một số phận. Đài Á châu Tự Do là một đài phát thanh tư nhân phi lợi nhuận, được chính phủ Hoa Kỳ tài trợ nhằm cung cấp thông tin, tin tức và bình luận trực tuyến cho thính giả tại Á châu. Đài hoạt động bằng 9 thứ tiếng trong đó có tiếng Việt. Đài bắt đầu hoạt động từ ngày 12/3/1996 với mục đích thúc đẩy và nâng đỡ tự do và dân chủ tới những ng
Phải thanh minh thanh nga ngay cho các cụ, đây không phải chuyện trâu già gặm cỏ non mà là chuyện ngày xưa các cụ tán gái khi còn thanh xuân. Chuyện trâu già gặm cỏ non cũng có, khi cụ Nguyễn Trãi làm thơ tán cô bán chiếu Nguyễn Thị Lộ, nhưng tuy đây là một cuộc tán gái nổi tiếng nhưng không thuộc vào category này nên không nhắc tới tại đây.
Sáng sớm hôm nay, khi mở hộp thư, nhận được tin, tôi liền điện thoại cho anh Phạm Văn Nhàn, người bạn thân với anh chị Thương – Quy. Hỏi, “Anh Nhàn ơi, anh hay tin gì chưa? Anh Lê Ký Thương đã ra đi lúc 9 giờ 50 phút sáng hôm nay 14/2/2025. Cả hai anh em đều buồn. Im lặng một lúc, anh kể mới gọi thăm anh LKT cách nay mấy tuần. Chị Quy nói chuyện rồi đưa phone qua cho anh Thương, nhưng khi đó miệng anh Thương đã cứng, không nói được gì...
Hồi trẻ tôi đi lính xa nhà có lần về phép được Mạ tôi nấu cho một bữa cơm ngon ngất ngư. Ăn lạ miệng tôi hỏi cơm chi Mạ nói cơm Âm Phủ. Đó là lần đầu tiên trong đời tôi được ăn món cơm mang cái tên thật kỳ dị của xứ Huế, quê Mạ tôi. Khi tôi trở ra đơn vị ở Cheo Reo, Mạ không quên bới cơm Âm Phủ cho tôi mang theo. Biết đâu nhờ miếng "cơm ma" này mà tôi sống sót cho tới ngày tàn cuộc chiến.Ngày nay Mạ tôi đã gần trăm tuổi, tôi cũng chẳng còn trẻ trung chi. Hai mẹ con cùng tóc bạc da mồi, cùng lụm cụm ngồi ôn lại chuyện xa xưa ở quê nhà. Khi tôi nhắc tới cơm Âm Phủ thì Mạ tôi cười thật hiền, nụ cười "hăng rết hết răng" thiệt là dễ thương.
Mỗi năm, tôi đều nhận được điện thư hoặc thiệp chúc Tết từ một số bạn, trong đó có nó. Nó không gởi thư Merry Christmas, Happy New Year, chỉ duy nhất dịp Tết Âm lịch. Nó là dân miền Tây cần cù, hiếu hoc, là bạn thân của tôi...
Con người đến với nhau nhờ duyên và yêu nhau vì nợ. Ông cha ta đã nói là có duyên thì nghìn trùng xa cách cũng gặp mà khi không có duyên, nôm na gọi là vô duyên, thì có ngồi đối mặt cũng "bất tương phùng“ coi như người đối diện không có mặt, không hiện hữu: Hữu duyên thiên lý năng tương ngộ Vô duyên đối diện bất tương phùng. Nên hữu duyên hay vô duyên có thể nói là do ông trời xếp đặt, vợ chồng không phải ngẫu nhiên mà đến với nhau được, đều do nhân duyên mà ra, mọi vật đều do nhiều yếu tố kết hợp mà thành. Mà đã do nhân duyên rồi, thì tránh trời cũng không khỏi nắng, coi như định mệnh đã an bài.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.