Hôm nay,  

Ma

25/08/202300:00:00(Xem: 3553)

Logo cho fb  
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
   
Trong cơn đại dịch Covid-19 đã hoành hành, nhờ vaccine, căn bệnh được kiểm soát tốt, tuy vậy tất cả chúng ta đều ít nhiều bị tổn thương. Người thì mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất chồng, mất con, mất họ hàng, bè bạn… Kẻ bị áo cơm quật đập tơi tả. Kẻ khác công ăn việc làm lụn bại... Đều là những chuyện buồn.
   
Đã buồn lại phải nghe điều bất ưng, khác nào lấy dao nhọn khoét thêm vào vết thương còn tươm máu?
   
Cho nên tôi sẽ không đề cập đến chuyện buồn làm chi, có điều chuyện tôi sắp kể hẳn nhiều người khó tính sẽ bảo tôi thuộc thành phần vô đạo đức.
   
Đành chịu, không thể vừa lòng tất cả!
   
Ngày ấy tôi mới ngoài hai mươi, không đẹp trai, tài hoa và chữ nghĩa bề bề như một số người tôi may mắn quen biết. Được cái tôi không ghét bỏ ai bao giờ, nhất là với phái nữ tôi luôn nhường nhịn và… dễ thương (vì thế bạn bè vẫn cho rằng tôi thuộc trường phái dại gái!) Xét chung, tôi vô hại. Tuy vậy, khách quan nhận xét, tôi cũng có nhược điểm là hơi nóng tính. Phàm những người nóng tính thường phổi bò, ruột để ngoài da, khi giận sùng sục tựa nước sôi, song nguội ngay như bị ném vào phòng lạnh! Nhược điểm này xét mặt nào đó, lại là ưu điểm, loại người như tôi chắc chắn không mưu mô quỉ kế, khỏi mất công đề phòng. Có lẽ nhờ thế phái nữ, vốn rất đa nghi song dễ mềm lòng, thường dành cho tôi nhiều thiện cảm.
   
Và họ cụ thể thiện cảm ấy bằng cách cho không biếu không những quả tình lãng mạn.
   
Chuyện tôi sắp kể, có phần… liêu trai chí dị. Tuy nhiên biết đâu sẽ giúp mọi người một phút quên đi bao nhiêu bất ưng trong cõi nhân sinh lắm đa đoan này.
   
Sau nhiều tuần ra sức tán tỉnh, cuối cùng tôi thuyết phục, đưa được một nàng xuống miệt Thủ Thiêm. Mặt ngoài: thư giãn, tạm tách lìa khỏi cảnh xô bồ và khói xe, tiếng động của thành phố; Mặt trong: (chỉ mình tôi biết) tạo điều kiện để thừa cơ… nước đục thả câu! Chao ôi, cho đến bây giờ tôi vẫn chưa quên cảnh đắm đuối dưới bóng sầu riêng, cạnh dòng kinh nở đầy hoa súng. Thơ mộng và… hiện thực như phim diễm tình Romeo and Juliet cộng mùi tình dục hiện sinh kiểu  Một Chút Mặt Trời Trong Nước Lạnh.
   

Tối, tôi đưa nàng về. Nhà nàng ở ven đô, nếu đi đường lớn mất chừng sáu mươi phút, nếu sử dụng đường tắt chỉ ngót nửa giờ, khổ nỗi đó là một hương lộ đầy ổ gà, băng ngang bãi tha ma hoang vắng, hầu như ít ai dám đi vào ban đêm. Để tỏ ra ta đây thừa đởm lược, tôi đề nghị,

“Mình về đường tắt nhé?”
Nàng la bai bải, “Đừng anh ơi, em sợ.”
Tôi hùng hổ, “Có anh đây, sợ gì.”
Nàng bấu mạnh vai tôi, “Nghe nói nghĩa địa này nhiều ma lắm.”
“Ma với quỉ, nhảm nhí.”

Mặc cho em cản ngăn, tôi vẫn ngoan cố rẽ vào.

Đường tối, bụi bờ nhấp nhô, mồ mả ngổn ngang cao thấp vô trật tự. Những bụi xương rồng tựa những bàn tay vói lên từ lòng đất. Khóm lau bông trắng ngả nghiêng trong gió trông giống những mái đầu bạc vật vã khóc than. Hàng vạn đốm lân tinh lượn lờ trên những phần mộ. Nàng ôm cứng tôi, lạc giọng, “Anh ơi… em sợ.”
   
Tôi không trả lời, chăm chú điều khiển chiếc honda vượt qua khoảng đường xấu. Xe vào đến trung tâm bãi tha ma thì trời chuyển mưa, mây đen ùn ùn phủ kín bầu trời, sấm chớp đì đùng. Thoáng chốc mưa ập xuống, xối xả. Nàng nói như muốn khóc, “Chết rồi anh ơi, làm sao?” Tôi đảo mắt, một nhà mồ lớn xây kiên cố bằng bê-tông có mái che rộng, chỉ cách lộ non mười mét, tuy bề thế nhưng hình như không người chăm sóc, lau sậy um tùm. Vừa cho xe tấp vào, tôi vừa nói, “Mình trú dưới mái che này.”
   
Nàng mếu máo, “Em sợ!”
Tôi trấn an, “Đã bảo có anh, không việc gì phải sợ.”
Tôi dìu em ngồi xuống gờ xi-măng cạnh mộ bia, nơi khô ráo và khuất gió. Em ôm chặt tôi, luôn mồm, “Em sợ…”

Tôi, ngày ấy, rất vô thần. Không tin những gì nếu không sờ được bằng tay, nhìn thấy tận mắt. Cũng có nghĩa chuyện ma quỉ, với tôi, chỉ là sản phẩm tưởng tượng, nhằm hù dọa trẻ con và bọn yếu bóng vía, nên thay vì sợ tôi lại cảm thấy máu chảy loạn trong huyết quản khi được nàng ôm chặt. Da thịt nàng mát lạnh, mùi thơm con gái xộc vào mũi. Tôi ngất ngư, con lợn lòng vùng lên đòi quyền tự trị. Hai bàn tay tôi chu du khắp mọi  ngõ nghách trên body nàng.

“Đừng anh, em sợ!”
Điệp khúc vẫn không ngừng mãi đến khi tôi vật em ngã ngửa trên tấm “đanh” đậy mộ phần, nàng lắp bắp, “Đừng… anh…”
Mặc. Nàng co giật tựa động kinh, tiếng kêu thấp dần cường độ. Tôi trườn lên, thì thầm, “Anh yêu nhé?”
Nàng ậm ự, lặp lại điệp khúc, “Thôi anh… em sợ…”
Tuy vậy, nàng không chống cự quyết liệt, tôi chiếm cứ được mục tiêu tương đối dễ.
Đến lúc trong vô thức, nàng ôm siết, nhưng thay vì “anh ơi, em sợ.” Bây giờ nàng bỏ bớt hai từ “em sợ”, chỉ giữ hai từ “anh ơi… anh ơi…” Tôi nói như máy, “Anh yêu em.”

Tiếng mưa rì rào trên mái nhà mồ, tiếng gió gào rú, và những đốm lửa lập lòe ngoài nhấp nhô mồ mả khuất lấp giữa cỏ cây, lau sậy, tiếng sét đì đùng lóe sáng trên bầu trời vần vũ mây đen tạo thành một âm thanh, hoạt cảnh vừa ma quái vừa quyến rũ. Đến một lúc huyết quản rần rật dưới da, và rồi… tôi thốt kêu, “Cưng ơi…”

Nàng ôm tôi chặt hơn, hổn hển, “Anh… anh… anh… anh…”

Một lúc sau, cơn “địa chấn” dần hạ, nàng bừng tỉnh, nhẹ đẩy tôi ra, ngồi dậy, nhìn quanh hoạt cảnh rất liêu trai chí dị, vẻ sợ hãi, “Tội lỗi quá anh ơi!”

Tôi nhớ chân dung người đàn ông quá cố có nụ cười hiền đã nhìn thấy qua tia sấm chớp khi đang hành sự, lòng hơi lung lạc, tôi thầm khấn, “Mong ông linh thiêng thứ lỗi, ông biết mà, làm sao đừng được.”

Một con chồn từ đám lau sậy phóng ra, hai con mắt rực sáng tựa hai đốm lân tinh nhìn chúng tôi hồi lâu rồi lủi nhanh, mất hút phía sau bia mộ. Nàng lại ôm tôi, “Anh ơi… em sợ…”
 
– Khánh Trường

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.