Hôm nay,  

Sự đời

13/10/202300:00:00(Xem: 3166)
 
Logo cho fb
 
Trung tâm lọc máu, nơi tôi đến “làm việc”, khá qui mô, gồm nhiều nhân viên: văn phòng, tiếp tân, kỹ thuật, lao công dọn dẹp vệ sinh, bác sĩ, trợ lý, y tá… Riêng đội ngũ y tá gồm 6 người, trong số này có hai người cho tôi nhiều ấn tượng nhất:
   
Một anh Mỹ đen cao to như con gấu, chí ít cũng 250 ký, khó đăm đăm, ít khi cười, phát ngôn cộc cằn. Nói chung, thoạt nhìn tôi không ưa nổi, và sợ, tay này lụi kim (mỗi lần 2 mũi, kim to như cây tăm xỉa răng, cách nhau khoảng 2cm, một mũi hút máu ra đưa vào máy lọc chất dơ rồi trả lại cơ thể qua mũi thứ hai. Cứ thế luân lưu hơn ba tiếng), tôi nghĩ, chắc đau xón đái.
   
Một con bé người Phi dong dỏng cao, xinh gái, lễ phép, vui vẻ, dịu dàng.
   
Các y tá luân phiên, chừng 10 ngày vòng xoay lại đến. Ban đầu tôi rất mong con bé sẽ lo cho mình, ngược lại, nơm nớp sợ tên Mỹ đen “tra tấn”.
   
Nhưng sự đời nhiều cái thực không thể ngờ.
   
Con bé dễ thương như thiên thần lại vụng về đến… kinh hoàng. Nó thường lụi kim trật lất, năm lần bảy lượt mới trúng mạch máu, cứ như tay chơi thứ thiệt, thọc trên nạy dưới đâm ngang xỏ dọc. Đau tắt thở!!! Ngược lại, “con gấu” trông bặm trợn lại tuyệt vời, lụi kim chính xác và êm ái nhẹ hơn kiến cắn, thậm chí có lúc tưởng như không.
   
Từ lúc ấy tình cảm tôi xoay 180 độ. Trông chờ đến phiên tên da đen bao nhiêu thì sợ gặp thiên thần bấy nhiêu.
   
Từ chuyện lọc máu, nhỏ, chợt nhớ chuyện xưa, lớn hơn.
   
Hai chuyện tình tiết khác nhau nhưng có cùng mẫu số chung: đau! Một đằng đau thể xác, đằng kia đau tinh thần. Nỗi đau thể xác qua nhanh (nhiều năm qua, cách ngày, hàng ngàn mũi kim đã lụi vào mạch máu, nhưng chỉ đau vài giây rồi thôi). Nỗi đau tinh thần khó xóa. Tuy thời gian có làm nhạt bớt, vậy mà thỉnh thoảng hồi nhớ vẫn nghe nhoi nhói, cảm giác nhoi nhói này chắc chắn sẽ bám theo cho đến ngày xuống lỗ.
   
Thuở trên dưới hai mươi tôi sống khá buông tuồng. Rượu, cà phê, thuốc lá, gái trai nhăng nhít. Rượu? Ngày nào cũng uống, một mình có thể nốc nửa lít rượu trắng Bà Điểm (nổi tiếng nặng đô, hơn cả Vodka của Nga). Các thứ khác của Tây, Tàu, Nhật như Hennessy VS Cognac, Johnnie Walker, Mai Quế lộ, Sakê… tôi thừa sức nốc hết ly này sang ly khác, càng uống càng hưng phấn! Còn bia? Khác chi nước lã, chỉ để giải khát, và để…. xúc miệng cho thơm râu! Cà phê? Ngày bốn cữ, sáng trưa chiều tối, chưa kể cà kê dê ngỗng với bạn bè ở các quán đèn mờ, nhạc nhiếc khuất chìm lướt thướt êm ru kiểu Hầm Gió, Mù U… và chỉ sính đen đậm, đắng như sái thuốc phiện. Thuốc lá? Ngày hai bao Bastos xanh. Mọi thứ khác như Ruby, Captan, Camel… nhẹ quá, rít bao nhiêu điếu mới đã? Thứ có đầu lọc, mùi bạc hà the the đỏm dáng càng chả ra chi, chỉ dành cho bọn công tử học đòi ăn chơi hoặc nhi nữ con nhà… rách! Hoặc nữa, các em cave trong vòng ôm mấy tên GI mắt xanh mũi lõ ở các Night Club xập xình nhạc Disco. Và gái? Tôi không đẹp giai, mắt một mí, răng cải mả vô trật tự, trán hói lơ thơ vài sợi tóc, ốm nhách, đi đứng hấp ta hấp tấp như bị ma rượt (theo mấy ngài thầy bói: số bần hàn cơ cực, không vác thuê gánh mướn cũng xích lô ba gác đổ mồ hôi sôi nước mắt chưa chắc rau mắm đủ no), lại xuất thân hạ lưu, cha mẹ lao động chân tay, quanh năm, dầm mưa dãi nắng nên da dẻ đen đúa sần sùi. Đương nhiên tôi `thừa hưởng tố chất di truyền, cũng đen nhẻm.
   
Tuy ngoại hình rất ư phản mỹ thuật là thế tôi vẫn được tiếng đắt đào. Người sính tử vi bảo tôi có sao đào hoa chiếu mệnh. Riêng tôi, hiểu, chả tướng với số gì, chỉ là tôi đủ khôn để biết, muốn đạt mục đích, điều kiện ắt có và đủ là nói năng tán tỉnh hoặc giả vờ lắp bắp đúng điệu nhát gái, hoặc mồm miệng bôi mỡ trơn tru, dẻo ngọt như kẹo mạch nha, cộng thêm ngón võ lì, dai hơn ghẻ rách! Ban đầu các nàng đỏng đảnh trề môi: không có cửa mô! Nhưng tôi vẫn kiên trì bám trụ tới hơi thở cuối cùng. Riết, các nàng động lòng trắc ẩn (phái nữ vốn nhẹ thể!) để rồi một ngày tay đây em hãy tựa đầu, cho anh nghe nặng trái sầu rụng rơi.
   
Vì đắt đào nên tôi hơi chảnh! Chỉ giăng câu thả lưới các nàng mày ngài mắt phượng, vóc dáng cao ráo, đầy đủ lễ bộ tựa các hoa hậu chân dài (nếu có thua cũng chỉ chút đỉnh không đáng kể). Nói chung, đó là những nhan sắc trên trung bình. Nàng nào ngoại hình thường thường bậc trung, tôi chê!
   

Năm mười tám tuổi tôi được cùng lúc hai nàng để mắt xanh. Một nàng đúng chỉ số tôi đề ra. Cuộc tình mặn nồng với đầy đủ cung bậc. Bỗng môt ngày nàng biến mất. Nửa tháng sau tôi mới hay nàng đã xuất giá tòng phu. Tôi đau, mất ăn mất ngủ nhiều tháng! Năm kế thi rớt tú tài, tôi vào lính. Sau bốn tháng quân trường tôi về đơn vị tác chiến với cái cánh gà bên vai. Thường, sau vài tháng hành quân đơn vị về hậu cứ nghỉ dưỡng. Thời gian này bọn lính lác chúng tôi mỗi sáng nếu không đi “rỏn” quanh vòng đai thành phố giữ an ninh cho thiên hạ an hưởng thái bình thì phải tạp dịch, lợp lại mái tôn, sơn quét doanh trại, rửa cầu tiêu, nhổ cỏ ngoài vận động trường… Một hôm tôi cùng tám thuộc hạ do tôi làm tiểu đội trưởng đang hì hục vét lại giao thông hào dọc lối đi dẫn ra cổng, chợt tai nghe tiếng thắng rít nhẹ cùng tiếng động cơ nổ êm. Ngẩng lên, và do phản xạ, tôi thẳng người, đưa cao tay chào đúng lễ nghi quân cách. Trên xe, băng sau, thiếu tá tiểu đoàn trưởng ngồi vắt chân chữ ngũ, ung dung, trên môi ngậm ống vố, mùi khói hap in hap thơm lừng:
   
“Làm tốt nhé, mai tôi cho nghỉ một ngày, mặc sức ăn nhậu.”
   
Bà vợ ngồi bên giục:
   
“Đi thôi, không khéo tới trễ, tiệc tùng toàn tai to mặt lớn, mình tới trễ coi hổng được.”
   
Mải lo chào kính tôi không để ý phu nhân sếp, đến khi nghe giọng quen, tôi giật mình nhìn kỹ. Nàng, người tình thứ nhất của tôi, son môi bóng nhẫy, áo sơ mi trắng, vét tông khoác ngoài, khăn lông quàng cổ, tóc vấn cao, đôi bông tai lấp lánh hai hạt kim cương. Nàng chồm người soi lại dung nhan trong kính chiếu hậu, không thèm nhìn bọn lính chúng tôi!
   
Ôi, nàng đó sao? Con họa mi có đôi cánh xanh mùa đông (trời lạnh, nàng thường mặc áo len xanh) từng thề non hẹn biển, từng trong vòng tay tôi, mắt long lanh ướt, nhõng nhẽo: “Anh ơi, yêu em mãi nhé, đừng một dạ hai lòng, em tự tử cho anh ân hận suốt đời.”
   
Gã tài xế cho xe vọt nhanh theo lệnh thượng cấp. Tôi sững người nhìn theo, lảo đảo muốn ngã. Tên lính đứng cạnh đưa tay đỡ:
   
“Trung sĩ răng rứa, mặt tái xanh, trúng gió à?”
   
Tôi cố trấn tĩnh:
   
“Không có chi, làm lẹ cho xong sớm, còn ra chợ sư đoàn mần vài xị.”
   
Tôi đau hơn bị hoạn, tư nhủ, tối nay phải say một trận nghiêng trời lệch đất cho quên mối hận tình!
     
Nàng thứ hai con nhà giàu, đi học bằng xe hơi có tài xế đưa đón, phải tội nàng có một dung nhan đáng thở dài, vóc dáng phì nhiêu, cao khiêm nhường, cười hở lợi phản cảm. Nàng yêu tôi rất mực. Tôi ỡm ờ, bởi lẽ so với nàng thứ nhất, chẳng khác ví gà với công, yêu nỗi gì! Thời ấy phong trào chạy patin nở rộ, khắp thành phố sân patin mọc lên như nấm. Nhà nàng cũng kinh doanh một sân patin hiện đại rộng thênh thang. Thông thường khách thuê giày có bánh xe của chủ để lướt, riêng tôi, nàng mua tặng một đôi patin bảnh chọe làm của riêng. Khổ nỗi tôi mê người tình thứ nhất, con chim họa mi có đôi cánh xanh mùa đông đỏm dáng, nên vội vả chạy đến nhà nàng với đôi patin cáu cạnh, trộ:
   
“Anh tặng em.”
   
“Cưng mua à?”
   
Tôi vênh mặt:
   
“Phải, đời anh cho được anh cũng cho, sá gì đôi patin.”
   
Nàng cảm động hôn tôi một cái rõ dài, môi mềm, thơm ngọt. Tôi ngất ngư, vượt qua ngay mặc cảm áy náy đã dùng quà của nàng thứ hai tặng lại người tình mặt hoa da phấn!
   
Ngày tôi vào lính, nàng thứ hai chăm chỉ viết năm ba chục lá thư than khóc tỉ tê, thề sẽ không yêu ai đến mãn kiếp. Tôi câm, vì chưa thể quện người tình thứ nhất. Về đơn vị một thời gian, tôi nghe tin nàng thứ hai lấy chồng theo lệnh song thân, nàng vốn dĩ con nhà lành, nào dám trái lòng phụ mẫu! Thế cũng xong.
   
Một hôm nghỉ phép tôi xuống phố, chạm mặt nàng trong quán kem, tay bế con chưa đầy tuổi, nàng lúng túng:
   
“Anh khỏe?”
   
“Khỏe, còn em?”
   
Nàng nhìn sâu vào mắt tôi, giọng trầm, rơm rớm:
   
“Khỏe, nhưng…”
   
Ngập ngừng vài giây, nàng hạ giọng:
   
“Em không quên được anh.”
   
*
 
Người xưa nói không sai: tốt gỗ hơn tốt nước sơn.
   
Cô bé người Phi dễ thương tựa thiên thần nhưng lụi kim vụng về, đau tắt thở, anh Mỹ đen mặt mày bặm trợn, nói năng cộc cằn, dáng thô kệch như con gấu, nhưng lụi kim chính xác, nhẹ nhàng, êm ru. Và một nàng nhan sắc chim sa cá lặn nhưng thay lòng đổi dạ khó lường, nàng kia dung nhan tựa tiếng thở dài nhưng thủy chung rất mực.
   
Sự đời lắm nỗi đa đoan, sai đúng khó phân!
 
– Khánh Trường
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Người đọc nhìn thấy môt hình ảnh rất nhỏ, khiêm tốn, ngay trong ngày đầu 30-4-1975, hình ảnh người chiến binh giải phóng Sàigòn đang quì gối cầu nguyện bên ngoài ngưỡng cửa Nhà Thờ Đức Bà Sàigòn. ..
Tôi đã xem phim “Oppenheimer” chiếu ngoài rạp, một phần vì tiểu sử của nhà khoa học vật lý đã chế ra bom nguyên tử, từng giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học U.C. Berkeley và vì cũng muốn biết ngôi trường thân yêu của mình đã được lên phim như thế nào.
Chùa Linh Sơn ở Joinville Le Pont của chúng tôi, bên dưới chánh điện là một phòng sinh hoạt Phật sự khá khang trang và rộng rãi dành cho các em oanh vũ gia đình Phật tử Quảng Đức. Các em tới học Phật pháp, tập hát, học giáo lý và cùng làm văn nghệ. Trên tường chính diện có treo một tấm tranh lớn như bằng hai cái chiếu, chiếm gần hết một phần tường. Trong tranh là cảnh biển trời bao la xanh xanh vây quanh, tọa lạc ở gần giữa là hình tổ Bồ Đề Đạt Ma quảy một chiếc giầy trên tích trượng vắt vẻo trên vai. Ngài đang thong dong du hành vô ngại đầy an bình.
Mấy nay giang hồ đồn đại vậy mà trúng y chóc luôn, linh như bà phán. Hồi nào giờ hễ giang hồ khịa chuyện gì là có chuyện đó. Thiệt tình mà nói thì cũng từ nội bộ lộ ra người ta mới biết, hũ mắm có xì khẳm thiên hạ mới nghe mùi. Cuối cùng rồi thì chủ tiệm nước cũng bị đuổi cổ khi mà ghế ngồi chưa nóng đít. Trong cái rủi có cái may, cu Thẹo về vườn trong danh dự tự từ chức, từ chức là cái chuyện tào lao chưa bao giờ có ở xứ quỡn quê mình.
Sách Cổ Học Tinh Hoa có chép chuyện Sào Phủ và Hứa Do - hai ẩn sĩ đời Vua Nghiêu. Câu chuyện như sau: Hứa Do được tiếng là người hiền, vua Nghiêu vời vào để truyền ngôi thiên tử. Hứa Do từ chối, cười mà về rồi ra suối rửa tai...
Đỗ Bảo Trân và Đỗ Hoàng Trung, cặp song sinh 11 tuổi lớn lên trên một ngôi nhà thuyền ọp ẹp ở đồng bằng sông Cửu Long, có những ước mơ. Trân yêu K-pop, xem video vào ban đêm để học tiếng Hàn và rất muốn đến thăm Seoul. Trung thì muốn trở thành ca sĩ. Nhưng hy vọng của hai đứa trẻ là “không thực tế”, Trung nói: “Cháu biết mình sẽ phải lên thành phố để kiếm sống”. Những giấc mơ như vậy thường tan biến nhanh ở vùng sông Mekong, nam Việt Nam, một trong những khu vực dễ bị ảnh hưởng bởi khí hậu nhất trên thế giới.
Khi nói về cái nhìn của chàng học trò xứ Quảng với những người đẹp đất thần kinh tôi nghe nhiều lần hai câu: Học trò trong Quảng ra thi / Thấy cô gái Huế chân đi không đành. Có lẽ vì mặc cảm thua sút, thấp cơ so với người đẹp, chàng học trò xứ Quảng nói lại bằng cách thay chữ “Thấy” bằng chữ “Mấy” để vớt vát: Học trò trong Quảng ra thi / Mấy cô gái Huế chân đi không đành.
Nhà tôi có bốn chị em gái. Hai người chị của tôi: chị Thanh Tâm và chị Cẩm Thành hoa tay nữ công đầy mười ngón. Tôi và nhỏ em Ngọc Hiền thêu thùa may vá cũng thuộc hạng nhứt, nếu tính từ dưới lên. Qua đường kim mũi chỉ khéo léo của hai chị, chúng tôi đã có được những tác phẩm nghệ thuật vừa đẹp, vừa thắm tình yêu thương...
Trong suốt thế kỷ qua, mọi người thường hát vang khúc nhạc bốn câu để chúc mừng ngày sinh nhật của người thân, bạn bè. Nhưng có lẽ ít người biết tên của những người phụ nữ đằng sau giai điệu nổi tiếng này: Mildred Jane Hill, một nhạc sĩ và nhà soạn nhạc nổi tiếng, và Patty Smith Hill, người tiên phong trong lĩnh vực giáo dục trẻ thơ.
Tôi bắt đầu tập uống cà phê và hút thuốc vào cuối năm lớp đệ nhị, lớp 11 bây giờ. Thật lòng mà nói, lúc đó tôi chẳng thấy ngon lành gì, vừa đắng lại vừa khó thở...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.