Hôm nay,  

Nhạc Chế

12/04/202400:00:00(Xem: 3781)
Ngày nhỏ chúng tôi căng miệng hát một cách thích thú bài nhạc chế từ bài La Marseillaise, bài quốc ca của Pháp. Tôi thuộc cho tới bây giờ, sau nhiều chục năm tôi vẫn còn hát được. “Thầy đồ ngày xưa quen thói  nuôi móng tay dài / quần trễ tai hồng đỏ đen mực son. Đầu lúc la lúc lắc đảo như lên đồng / được dăm trẻ ghẻ lở quá hủi phong. / Quát lấy điếu, đem bình phóng , bưng cơi trầu. / Nhân chi sơ, người đi trước / ta bảo  phải để vào tai dốt đặc.  Ở trên đầu thầy có cái chi lúc lắc? Búi tó, nó to bằng niêu / tính ghét móng tay hằng cân / thọc luôn trong nách, bật tanh tách hoài / Ngâm thơ thích chí rung đùi”. Nhớ nhưng không chắc có đúng không,  có thể có chỗ không nhớ tôi đã chế ra. Nhạc chế cũng như ca dao không bao giờ có tên tác giả. Không biết đây là một bài nhạc chế để chọc quê chính quốc lúc đó đang cai trị Việt Nam hay đùa chơi với các thầy đồ của một anh học trò không thích tới trường.

Nhạc chế thường là để mua vui vô thưởng vô phạt. Bản Love Story quá phổ thông, ai trong chúng ta cũng biết đó là một bản tình ca lãng mạn. Nhưng một ông, có lẽ là dân ghiền thuốc lá, đã chế ra như ri. “Biết nàng thèm thuốc lá / Tôi có thuốc lào, mời nàng tức tốc / Nàng đòi thuốc lá, không hút thuốc lào, không hút thuốc lào vì nàng quý phái / Mặc nàng quý phái tôi vẫn hút hoài mịt mùng khói thuốc / Ôi điếu thuốc lào / Thế rồi nàng vã quá, nàng đành hút ké, ôm cái điếu cầy nàng ngồi bó gối / Nàng ngồi bó gối môi mắt mơ màng miệng nàng bốc khói / Miệng nàng chúm chím, sương khói quanh người lần đầu quá đã / Ôi điếu thuốc lào!”

Tôi vốn mê bản nhạc này nên nghe bản nhạc chế thấy tội cho hai tác giả Francis Lai và Carl Sigman, một ông làm nhạc, một ông viết lời. Hai ông này ở xa, chẳng biết có còn thở trên cõi đời này không nữa, có tội cũng chẳng gửi qua nỗi lòng mình cho hai ông được. Thôi thì nói chuyện gần hơn một chút.
Tôi rất thích bản “Thuyền và Biển” thơ Xuân Quỳnh, nhạc Hữu Xuân. Đây là một bài thơ hay của nhà thơ vắn số. Có lẽ vì bài thơ quá hay nên có tới hai nhạc sĩ phổ nhạc. Nhạc sĩ Hữu Xuân và Phan Huỳnh Điểu. Tôi thích bài của Hữu Xuân do Diễm Liên hát. Bản nhạc chế như sau: “Chỉ có tiền mới hiểu / Vợ yêu ta nhường nào / Chỉ có vợ mới hiểu / Tiền lương ta là bao. / Những ngày đưa chậm lương / Vợ mặt mày cau có / Những ngày đưa chậm lương / Tiền chi tiêu thật khó. ? Nếu lỡ tiêu hết rồi / Vợ có còn êm ái? / Nếu lỡ tiêu thật rồi / Tiền lương ta ai lấy?”

Nhạc chế thường để mua vui khơi khơi như vậy nhưng nhạc chế nhiều khi cũng ôm ấp nỗi niềm. Khi còn bị nhốt trong trại tù cải tạo, tôi cũng đã chế nhạc. Ngày đó, sau những giờ lao động mệt nhọc, buổi tối chúng tôi chỉ muốn nghỉ ngơi. Nhưng cơm nước xong là những giờ họp tổ, sinh hoạt nhà, học tập kiểm điểm. Cuối cùng là căng miệng lên hát. Bài hát phổ biến là “Trường Sơn Đông Trường Sơn Tây”, thơ Phạm Tiến Duật do Hoàng Hiệp phổ nhạc. Hầu như đêm nào cũng leo lên Trường Sơn nên thấy ớn bà chè luôn. Một đêm, trằn trọc không ngủ được, tôi chế bản nhạc này, vừa để chọc quê ông bạn già nằm cạnh có cô bồ trẻ, vừa để tâm sự với chính mình.  Cùng đứng ngắm chung một vầng trăng / hai đứa ở hai đầu xa thẳm. /  Đường ra về mùa này đẹp lắm. / Người bên đông nhớ người bên tây. /  Ở bên đông anh ăn, anh ăn khoai sắn hơi nhiều, con đường cải tạo khó khăn gập ghềnh cho đời anh nát. / Hết rắn rồi anh bắt cóc anh ăn. / Còn bên tây em sống vẫn phây phây / hết ăn rồi lấy xe đi tìm kép / biết rằng em bắt được kép lạ / chắc em quên đời có anh rồi. / Em lên xe trời đổ cơn mưa / Chiếc gạt nước xua đi nỗi nhớ / Anh gánh nước nắng về rực rỡ / Chiếc thùng to nặng trĩu vai xương. / Từ bên anh đưa sang bên em / Những cơn sầu nhớ nhung dài vạn kiếp / Biết rằng em bắt được kép lạ / Chắc em quên đời có anh rồi!.

Trí nhớ tôi thật tệ. Tác giả không chắc còn nhớ đúng được “tác phẩm” của mình. Bài này không theo “truyền thống” của nhạc chế là không có tác giả. Một bài khác cũng có tác giả đàng hoàng. Bản nhạc rất nổi tiếng: “Hà Nội Mùa Này Vắng Những Cơn Mưa” của Trương Quý Hải. Năm đó Hà Nội lụt, “phố cũng như sông”. Nhiều người có máu tếu cao độ đã đổi tên Hà Nội thành Hà Lội! Có hai người đã chế bản nhạc này. Điều ngộ nghĩnh nằm ngay trong tên của bản nhạc. Hà Nội vắng những cơn mưa mà mưa thối đất. Hai anh Trương Công Sáng và Trần Chí Hiếu lội mưa ngán quá bèn nảy ra ý chế bài hát của bạn. Hai anh vốn thân tình với tác giả Tương Quý Hải. Hứng đã có, họ “sáng tác” rất nhanh. Anh Trương Công Sáng cho biết: “Ngày ấy Hà Nội bị ngập, mình và Hiếu sau khi lội nước tới cơ quan thấy ai cũng xôn xao về việc ngập lụt nên Hiếu mới nảy ra ý tưởng “Chế lời bài hát đi anh”. Tôi ngại bản quyền, Hiếu lại bảo: “Sợ gì, lôi bài ông Hải ra chế cho lành!”. Chúng tôi sáng tác và hoàn thiện cũng rất nhanh, chỉ khoảng 30 phút. Khi anh Hải đến chúng tôi cho nghe thử. Chỉ thấy anh vừa nghe vừa vỗ đùi đen đét khoái chí”. “Hà Nội mùa này phố cũng như sông / Cái rét đầu đông chân em run ngâm trong nước lạnh / Hoa sữa thôi rơi, em tôi bơi cả chiều trên phố / Đường Cổ Ngư xưa, ngập tràn nước sông Hồng / Hà Nội mùa này chiều không có nắng / Phố vắng nước lên thành con sông / Quán cóc nước dâng ngập qua mông / Hồ Tây, giờ không thấy bờ / Hà Nội mùa này lòng bao đau đớn / Ta nhớ đêm nao lạnh đôi tay / Cho đến đêm qua lạnh đôi chân / Giờ đây lạnh luôn toàn thân / Hà Nội mùa này phố cũng như sông / Cái rét đầu đông chân em thâm vì ngâm nước lạnh / Hoa sữa thôi rơi, em tôi bơi cả chiều trên phố / Đường Cổ Ngư xưa, ngập tràn nước sông Hồng / Hà Nội mùa này người đi đơm cá / Phố vắng nước lên thành con sông / Quán cóc nước dâng ngập qua mông / Hồ Tây tràn ra Mỹ Đình / Hà Nội mùa này lòng bao đau đớn / Ta nhớ đêm nao lạnh đôi tay / Cho đến đêm qua lạnh đôi chân / Giờ đây lạnh luôn toàn thân”. Tác giả bài hát chính quy Trương Quý Hải nói về đứa “con lai” của mình: “Phải nói là tôi thật bất ngờ về sự sáng tạo của các bạn trẻ bây giờ. Và cũng đúng như Sáng nói, tôi cũng bị các bạn trẻ làm cho phải cười ra nước mắt. Mỗi bài phù hợp với một ngữ cảnh, không thể đem ra so sánh. Bài hát chế thì phù hợp với cài ngày lụt lội đó. Trong cái khó khăn có một tiếng cười chia sẻ, để quên đi cái vất vả, để tìm thấy cái lạc quan thì bài hát chế cũng có giá trị riêng và hướng tới một đối tượng riêng”.

Nhạc chế cũng có đời sống riêng của chúng. Đó là một thứ văn nghệ dân gian, được phổ biến rộng rãi chỉ bằng truyền khẩu giúp cho mọi người có được những giây phút giải trí. Trên thực tế lời của các bản nhạc chế đi ngay vào sự kiện, không vòng vo tam quốc, thấm ngay vào lòng người. Đó là những lời kề cận của người sống trong cùng một hoàn cảnh, chung một nhịp đập của con tim. Dân miền Nam đã trải qua cuộc đổi đời mãnh liệt vào tháng 4/1975. Nhạc chế không bỏ qua biến cố đau thương này.

Bài “Túp Lều Lý Tưởng” của Tôn Nữ Trà Mi, một bút danh khác của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, là bài hát quen thuộc của dân miền Nam. Đôi song ca Hùng Cường - Mai Lệ Huyền đã làm mưa làm gió với bài này trên truyền thanh truyền hình trước 1975. Khi Sài Gòn được “giải phóng” bản nhạc chế đã phát hết tác dụng. Dân Sài Gòn nghe mà mát bụng. “Từ ngày giặc Mỹ vô đây mình cất nhà lầu / Từ ngày giặc Mỹ vô đây mình sắm xe hơi / Từ ngày giặc Mỹ vô đây mình sắm Honda / Lâu lâu mình sắm cái lò ga, lâu lâu mình sắm cái đồng hồ / Dần dần mình sắm sắm luôn người yêu / Từ ngày giải phóng vô đây mình bán nhà lầu / Từ ngày giải phóng vô đây mình bán xe hơi /

Từ ngày giải phóng vô đây mình bán Honda
/ Lâu lâu mình bán cái lò ga /  lâu lâu mình bán cái đồng hồ / dần  dần mình bán bán luôn cái cầu tiêu / Đó là lý tưởng của bác và của anh / anh mang vào trong Nam / Bắt người dân nghèo phải đói khổ phải lầm than”.

Dân chúng Sài Gòn ngày đó có nghề “chà đồ nhôm”. Nhìn quanh nhà có chi mại được là khuân ra chợ trời. Khách hàng là những anh bộ đội “giải phóng”. Còn chi cay cú hơn là dùng ngay bài “Giải Phóng Miền Nam” chế thành giải phóng đồ nhà. Giải phóng vào đây, chúng ta cùng bán hết ráo / Còn cái cát xét cũng ra chợ cũ bán nốt / Ôi! ti vi, máy may nhà mình xài mấy đời: đem bán cho bộ đội kiếm tiền / Đây bếp ga, quạt máy / Kia quần tây, sơ mi cứ vậy mà chúng ta đem ra bán dần”.

Bán mãi cũng hết, dân miền Nam đã phải trải qua thời kỳ đói vàng mắt sau ngày “giải phóng”. Ông Trần Long Ẩn là nhạc sĩ của phía bên thắng trận nhưng không thắng nổi lòng dân. Trần Long Ẩn có bài ca rất nổi tiếng, sau 30/4 được phổ biến rộng rãi trên các phương tiện truyền thông, bài “Tình Đất Đỏ Miền Đông”. Không bao lâu sau, bài hát đỏ này được chế lời, nói lên nỗi bực dọc của người dân đói rạc người. “Ai đã ăn mì và khoai giá rẻ / Ăn mấy bữa thì mặt mũi xanh lè / Để heo ăn thì heo mau lớn / Cho người ăn thì… mau sớm vô nhà thương / Ai đã ăn mì và khoai giá rẻ / Ăn mấy bữa thì bị ghẻ tưng bừng / Ghẻ tới lưng rồi… chui qua mông… đít / Vô nhà thương ngồi… xin thuốc đem dzìa xoa / Tổ Quốc ơi, ăn khoai mì ngán quá! / Nhà nước ơi, sao ăn độn hoài hoài / Từ giải phóng vô đây, không thấy mặt hột cơm …”

Chuyện ăn độn, khi thì khoai sùng, khi thì sắn nổi gân máu, khi thì bột mì mốc, khi thì bo bo là chuyện tôi đã từng cùng đồng bào tôi trải qua. Bài “Gia Tài Của Mẹ” của Trịnh Công Sơn được cho dính đầy khoai sắn.

Một ngàn năm ta đuổi thằng Tàu / Một trăm năm ta đuổi thằng Tây / Hai mươi năm đuổi Mỹ từng ngày / Gia tài của mẹ: gạo độn ngô khoai / Gia tài của mẹ: gạo mốc dài dài / Dạy con đeo răng sắt mà nhai / Dạy con mua thuốc đau dạ dày / Ăn sắn con thành chai / Ăn sắn tiêu hình hài”.

Bản “Lên Đàng” của Lưu Hữu Phước là một bản nhạc hùng thường được hát trong những dịp họp mặt của giới trẻ, nhất là trong các sinh hoạt của Hướng Đạo. Bản nhạc có từ thời kháng chiến, thời mà tác giả bản nhạc say sưa với các phong trào thanh niên. Bản nhạc chế cũng “lên” nhưng là lên tàu vượt biên. “Nào anh em ta cùng nhau mua ghe đóng tầu / Kiếm thuyền 3 bloc /  Ta cùng vượt biển bái bai quê hương rủ nhau qua Mỹ lưu đày / Đoàn ta chen vai sợ chi công an, biên phòng…”

Cái thời mà trong đầu mỗi người dân đều có một ông quan xưa rồi, thời nay trong đầu mỗi người dân đều có một chiếc ghe. Có tiền thì chạy đôn chạy đáo mua một chỗ ngồi trên những con thuyền ra khơi. Không có tiền thì canh me cốt sao cho thoát khỏi…quê hương. Quê hương chỉ còn là những ngày vàng con mắt, chặt con tim chẳng ai còn muốn lưu luyến. Hầu như mọi tầng lớp, mỗi người đều có tiểu sử trong đó có mục “vượt biên”. Bản nhạc nổi tiếng “Tàu Về Quê Hương” của Hồng Vân được quay mũi lái thành tàu rời quê hương. “Quê hương thanh bình mà sao ta sống không yên / Đưa nhau lên tàu vượt biên em thấy vui hơn / Vượt biên mình đóng ba cây / Vượt biên mình tới Ga-lăng / Vượt biên mình tới Bi-đông làm thân tị nạn / Không ai cho vàng mình đi theo lối canh me / Canh me không thành mình đi theo ngã Cao Miên / Vượt biên mình kiếm tương lai /Vượt biên mình kiếm đô la / Rồi mai mình lấy visa, làm thân Việt kiều”.

Đi hay về, Trịnh Công Sơn đã dùng dằng trong “Một Cõi Đi Về”. Không “đi” được, không yên phận “về”, thôi thì bia ôm cho quên phận của một tên lạc bày giữa quê hương. “Bao nhiêu năm rồi còn mãi bia ôm / Ôm nhau loanh quanh cho đời đỡ mệt / Em ơi! Bia ôm tha hồ chặt đẹp / Tình ái lăng nhăng – Một cõi đèn mờ / Lời nào của bia – Lời nào của rượu / Đùi nào của em – Đùi nào của bạn /  kế bên / Một thùng vừa bay – Một thùng vừa cạn / Ngồi vào lòng nhau cho vui trọn vẹn

 /  Tối ngày / Nhân dân chi tiền thì cứ bia ôm / Ai không bia ôm vô cùng khờ dại / Ta đi bia ôm cho đời trẻ lại / Kệ bố nhân dân dù đói hay nghèo”.
Tác giả của một nhạc phẩm bị chế lời chắc không vui khi đứa con tinh thần của mình bị lai căng. Cứ như một tổ chim bị tu hú ghé bàn tọa vào đẻ nhờ. Chim tu hú không biết làm tổ nên phải đẻ trứng vào tổ chim khác. Tác giả các bản nhạc chế, thường là vô danh, cũng đã mượn đỡ những bản nhạc nổi tiếng để gửi gấm tâm sự mình. Tôi không sáng tác nhạc nên không biết các nhạc sĩ sáng tác có nhạc bị chế cảm nghĩ ra sao. Nhưng thiết nghĩ họ nên vui vì nhạc mình có được nhiều người ê a, thì nhạc chế mới chọn để làm chốn nương thân.
                                                                                                   
03/2024                                                                             
Website: www.songthao.com

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.