Hôm nay,  

Mây Tần

17/05/202400:00:00(Xem: 1366)
 
« Đoái thương muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa »
-- Nguyễn Du
 
Hai chữ Mây Tần lấy ở điển tích của Hàn Dũ: « Mây ngang Tần Lĩnh biết nhà mình đâu?
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua ». Ý nói về nỗi đi xa, nên nhớ quê nhà, đê đầu tư cố hương!
 
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Thơ Đường)
 
Hai chữ Mây Tần hẳn là tâm sự của nhà văn Linh Bảo, theo sách vở ghi lại, bà phải sống cuộc đời xa quê hương. Bà vừa ra đi về miền miên viễn ở tuổi thọ 98, nhớ thương, tưởng niệm và cầu mong Linh Bảo siêu thăng tịnh độ quốc, tìm lại được mây Tần « nhựt mộ hương quan hà xứ thị ».
   
Nhắc đến hương quan hà xứ thị ? Nhất là nhắc lại Mây Tần, ta không khỏi nhớ đến đại thi hào Nguyễn Du, vì sao? Thưa, có lẽ vì tư tưởng của ông hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc, với mọi người, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Cái triết lý nhân bản của cụ Nguyễn Du đã được rất nhiều tác giả danh tiếng trình bầy. Tất cả, họ đều viết hay ở mọi khía cạnh, mọi chi tiết. Và truyện Kiều thì chúng ta bàn mãi cũng không chán và không hết, nên lúc này, CT xin mạn phép nhắc lại, có thể kể thêm vài chi tiết qua sự hoàn chỉnh luận án về triết lý nhân bản Kiều của tác giả linh mục Vũ Đình Trác.
   
Thưa, xin viết lại đây, chỉ là do lòng ưu ái với văn chương quê mẹ và cũng xin luôn nhớ về những tác giả luôn đầy ắp tâm tình gói gọn hai chữ Việt Nam.
   
Luận án của LM Vũ Đình Trác là một luận án triết học Việt Nam hoàn thành năm 1975 hoàn chỉnh và biện trình tại đại học Sophia, Tokyo, Nhật bản năm 1984, bản Việt văn do chính tác giả xuất bản và giữ bản quyền xuất bản năm 1993 « thời điểm công giáo » phát hành in tại NV Printing, Garden Grove, CA.
   
“Than ôi ! Một bước phong trần, mấy phen chìm nổi! Trời tình mù mịt, bể hận mênh mông. Sợi tơ mành theo gió đưa đi, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch!
   
Ai dư nước mắt khóc người đời xưa? Thế mà giống đa tình luống những sầu chung, giọt lệ Tầm Dương chan chứa; lòng cảm cựu ai xui thương mướn? Nghe câu  ngọc thụ não nùng. Cho hay danh sĩ giai nhân, cùng kiếp hoa nghiêm nặng nợ. Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai lưu lạc đau lòng”.
   
Trên đây là lời mở đầu bài tựa Hán văn, đề tựa là Thanh Tâm Tài Nhân thi tập của Chu Minh Trinh, Đoàn Tư thuật dịch.
   

Công việc viết và sưu khảo, hệ thống tư tưởng một luận án, một cuốn sách dĩ nhiên mang lại nhiều lợi ích, có những lợi ích chung cho mọi người và bên cạnh cũng là lợi ích cá nhân. Nhưng ý muốn thực hiện và lòng đam mê của tác giả Vũ Đình Trác mang chủ đề rất Việt Nam, triết lý nhân bản truyện Kiều, thiết nghĩ đây là một ý thức về nguồn mạnh mẽ và thân mến cho chúng ta, mọi người Việt Nam đang sống xa rời mà luôn luôn gìn giữ tâm hướng về quê hương Việt Nam.
   
Truyện Kiều của Nguyễn Du, đa số người Việt Nam ai ai cũng biết nghĩa là đã nghe nói tới, đã thuộc vài câu hay thuộc nhiều đoạn, đã từng nghe lẩy Kiều, hay đã yêu và đã giảng nghĩa lưu loát về Kiều. Nói chung, đây là một tác phẩm rất nổi danh, rất được lưu truyền trong dân gian, phổ biến rộng rãi từ lãnh vực văn chương truyền khẩu sang văn chương bác học.
   
Người nhà quê Việt Nam, khắp Bắc, Nam, Trung vẫn có thể nằm võng đu đưa và thích chí đưa đẩy, ê a vài câu Kiều lẩy: “Còn non còn nước còn dài, Còn về còn nhớ tới người hôm nay ».
   
Câu này trích ở đoạn Kiều tiễn biệt Kim Trọng. Người bình dân ta cũng vậy, khi thương ai, nhớ ai và trông đợi thì ngân nga… còn khi tức tối thì cũng biết nổi đóa: “Ma đưa lối quỷ dẫn đường, Lại tìm những nỗi đoạn trường mà đi ». Nhưng chán chê rồi ai ai cũng nương theo Nguyễn Du mà tự giải thoát được những uẩn ức của cuộc đời, có thể gọi theo văn chương bác học là tri thiên mệnh: “Cho hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân, Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phÀn thanh cao”… “Thiện tâm ở tại lòng ta
Chữ  tâm kia mới bằng ba chữ tài.”
   
Vì người ta yêu cầu chuyện mà viết thật nhiều sách để bàn về Nguyễn Du và triết lý Kim Vân Kiều. Sách bàn về Kiều có lẽ viết không bao giờ hết, càng viết càng giầu có, ý tưởng càng phong phú, tư tưởng càng rộng rãi và thâm thúy. Điểm cá biệt là bên cạnh đó, người bình dân Việt Nam không còn phải khó khăn lắm để đọc Kiều, vì cái bút pháp tự nhiên của Nguyễn Du: “Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.”
   
Khi nhớ quê hương, cha mẹ ở xa thì người học ít, học nhiều, người ở đâu đâu, chân trời, góc bể cũng đồng ý với cái buồn bã của Kiều mà cũng rung rung nước mắt: “Đoái thương muôn dặm tử phần, Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa”… “Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi.”
   
Truyện Kiều của Nguyễn Du xuất hiện vào thế kỷ XVIII là thời kỳ phồn thịnh của lịch sử văn chương Việt Nam.
 
Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Rượu có chi cay mà uống rượu phải đưa cay. Tôi phân vân về chữ “đưa cay” này. Gọi quách một cách trực tiếp như dân miền Nam: nhậu là phải có mồi. Như đi câu cá. Cá đớp mồi cá sẽ lên bàn nhậu. Nhậu một hồi sẽ “quắc cần câu”. Quắc cần câu là… xỉn, thân hình đi đứng liêu xiêu cong như cái cần câu cá. Xỉn quắc cần câu có biệt tài tự về tới nhà, lăn ra ngủ, khi tỉnh dậy chẳng nhớ cái chi chi. Tại sao người quắc cần câu lại có biệt tài như người mộng du vậy? Mỗi khi con người trải nghiệm được một thứ mới, thùy trước trán sẽ lưu giữ những thông tin này theo dạng trí nhớ ngắn hạn. Sau đó hồi hải mã nằm ở não trước sẽ ghi những thông tin ngắn hạn này để tạo thành ký ức dài hạn. Đường truyền từ thùy trước trán tới hồi hải mã cần có những neuron thần kinh đặc biệt dẫn lối. Say xỉn khiến những neuron này không còn hoạt động. Vậy là xỉn xong ngủ dậy chẳng còn nhớ mô tê gì hết!
Tôi quen biết khá nhiều văn nghệ sĩ, đủ thứ hạng: vang danh năm châu bốn biển, khiêm nhường quận lỵ làng xã, làng nhàng phường khóm, tổ dân phố. Đa phần không như tôi tưởng hồi còn trẻ, họ chả phải là những á thánh mà chỉ là những con người với đầy đủ cung bật tốt xấu. Có anh đóng rất tròn vai trò người chồng, người cha mẫu mực trong gia đình, có chú chân chỉ hạt bột, cơm nhà quà vợ và … sòng phẳng đến độ, trong mắt nhìn bạn bè, là những gã keo kiệt, xem cắc bạc như bánh xe bò, tính toán chi li từng tách cà phê, từng điếu thuốc.
Trung tâm lọc máu, nơi tôi đến “làm việc”, khá qui mô, gồm nhiều nhân viên: văn phòng, tiếp tân, kỹ thuật, lao công dọn dẹp vệ sinh, bác sĩ, trợ lý, y tá… Riêng đội ngũ y tá gồm 6 người, trong số này có hai người cho tôi nhiều ấn tượng nhất: Một anh Mỹ đen cao to như con gấu, chí ít cũng 250 ký, khó đăm đăm, ít khi cười, phát ngôn cộc cằn. Nói chung, thoạt nhìn tôi không ưa nổi, và sợ, tay này lụi kim (mỗi lần 2 mũi, kim to như cây tăm xỉa răng, cách nhau khoảng 2cm, một mũi hút máu ra đưa vào máy lọc chất dơ rồi trả lại cơ thể qua mũi thứ hai. Cứ thế luân lưu hơn ba tiếng)
Hồi học đệ tứ (lớp 9 bây giờ) tôi có một thằng bạn tên Thái Hải, con trai bác sĩ kiêm thi sĩ Thái Can, nó giống tôi ở cái tính “ba nhe” (phương ngữ miền Trung chỉ những bọn trẻ rắn mắt, cứng đầu, nghịch phá), nhưng khác tôi 180 độ: hắn học cực giỏi, tôi cực dốt! Hơn sáu mươi năm, tôi lang bạt kỳ hồ, thỉnh thoảng về quê nhưng chỉ như khách trọ, chỉ lưng bữa nửa tháng lại ra đi, nên không có cơ hội gặp bạn bè xưa, cũng có nghĩa kể từ ngày còn oắt con cho đến bây giờ tôi chưa gặp lại người bạn thời niên thiếu. Nghe nói sau này hắn cũng là bác sĩ như ông thân sinh. Phải thôi, học giỏi như nó, không nối nghiệp cha mới lạ.
Có thể khẳng quyết, trong dòng văn học Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, chắn chắn Song Thao là nhà văn viết Phiếm uyên bác và mạnh mẽ. Ông đi nhiều, đọc nhiều, viết chuyên cần. Chỉ trên mười năm ông đã trình làng 31 tập Phiếm, mỗi tập trên 300 trang. Đề tài của ông đa dạng, bao quát, từ cây kim sợi chỉ đến vũ trụ bao la với lỗ đen, mặt trăng, sao hỏa, phi thuyền…, đến chuyện đời thường, những địa danh ông từng đặt chân đến. Chúng ta sẽ còn được đọc nữa những tập Phiếm sẽ ra trong tương lai.
Những năm trên dưới hai mươi, tôi xem văn chương là một thứ đạo, những cuốn sách, những thi phẩm không khác kinh thánh, các nhà văn, nhà thơ ngang bằng các giáo chủ. Tôi mê văn chương, tôn sùng những người tạo ra nó. Bước vào tuổi trung niên, say mê vẫn còn, nhưng bình tĩnh hơn, chừng mực hơn. Cho đến khi phần lớn đời mình gắn liền với sách vở như nghiệp dĩ, văn chương, ban đầu tôi viết vì nhu cầu nội tâm, muốn tỏ lộ những buồn vui đau đớn hài mãn… qua chữ nghĩa, trước tiên cho mình, thứ đến cho người, với mong muốn xẻ chia.
Tuần này tôi trân trọng giới thiệu Đỗ Kh. Nhà văn Đỗ Kh., hẳn không xa lạ gì với người yêu văn chương tiếng Việt, ở hải ngoại nói riêng, trong nước nó chung. Ba mươi bốn năm trước, Đỗ Kh. (lúc bấy giờ ông còn ký bút hiệu Đỗ Khiêm) là tác giả đầu tiên tôi chọn để trình làng nhà xuất bản Tân Thư do tôi chủ trương. CÂY GẬY LÀM MƯA cũng là tác phẩm đầu tiên tác giả này đến với thế giới văn chương tiếng việt. Ngoài CGLM, Tân Thư còn in của ông một tập truyện nữa, KHÔNG KHÍ THỜI CHƯA CHIẾN. Với bút pháp rất riêng cộng kiến thức và trải nghiệm sâu rộng qua những chuyến đi khắp mọi nơi trên hành tinh này, Đỗ Kh. cho chúng ta những bài viết lý thú.
Mặt trời như chiếc nong đỏ ối sắp chạm mái ngói phủ rêu của dãy phố cổ. Bức tường bên trái loang lổ, tróc lở, chồng chéo những dòng chữ thô tục cạnh các bộ phận sinh dục nam nữ đủ cỡ đủ kiểu vẽ bằng than hoặc mảnh gạch vỡ. Bức tường thấp, có chiếc cổng gỗ đã mất hẳn màu sơn, xiêu vẹo, quanh năm nằm trong vị thế mở ngõ. Chiếc cổng dẫn vào ngôi miếu nhỏ. Bên trong miếu, trên bệ thờ bằng xi măng hai ba bài vị chẳng hiểu viết gì, chẳng biết thờ ai. Trước bài vị, lư hương chỉ toàn chân nhang. Từ lâu không còn ai đến đây hương khói, ngôi miếu đã biến thành giang sơn riêng của dơi, chuột cùng các loại côn trùng. Cạnh ngôi miếu, một tàn cổ thụ rậm lá với những rễ phụ chảy thõng thượt, bò ngoằn ngoèo trên mặt đất.
Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam ngày 3 tháng 2 năm 1994, dưới thời Bill Clinton. Khởi từ dấu mốc đó Việt Nam dần dần thân thiện hơn với người anh em “sen đầm đế quốc” này, thời kỳ ngăn sông cách chợ đã được khai thông, nhiều người xuất ngoại thăm thân nhân, du lịch hoặc công tác. Giới văn nghệ sĩ không ngoại lệ. Thuở đó gần như tháng nào tôi cũng đón ít nhất một văn, thi, nhạc, họa… sĩ. Phải chăng tại fake news, một người nhà quê như tôi bỗng biến thành “tay chơi” có số má dưới mắt nhìn các vị cầm cọ, cầm bút trong nước?
Hầu hết mọi người già thường mắc phải chứng quên những chuyện gần, nhưng lại nhớ những chuyện xưa, có khi hàng sáu bảy chục năm trước. May mắn (hay xui xẻo?), tôi có một trí nhớ khá tốt, dù gần hay xa tôi đều không quên. Tuy nhiên tôi lại vướng phải nhược điểm là chỉ nhớ sự việc nhưng lại không nhớ thời điểm. Nhược điểm này theo tôi từ ngày thơ trẻ cho đến hôm nay. Khác hẳn một vài người quen, chả hạn nhà văn Hoàng Khởi Phong, anh có một trí nhớ xuất chúng về những con số. Số điện thoại, số nhà của ai đó, chỉ nhìn hoặc nghe qua một lần là ghim ngay vào não, nhiều năm sau, hỏi, anh trả lời vanh vách. Nhà văn Cung Tích Biền cũng không kém, xuất thân là giáo sư dạy sử, ngoài những chi tiết liên quan đến chuyên môn như tên, đế hiệu các vị vua, ngày lên ngôi, ngày chết, những hành trạng của họ suốt thời gian trị vì, và mọi biến cố lịch sử… trải dài từ thời lập quốc, bốn nghìn năm trước, đến bây giờ. Như Hoàng Khởi Phong, anh nhớ rõ mọi con số, kể cả những chi tiết liên quan.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.