Hôm nay,  

Mây Tần

17/05/202400:00:00(Xem: 1823)
 
« Đoái thương muôn dặm tử phần
Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa »
-- Nguyễn Du
 
Hai chữ Mây Tần lấy ở điển tích của Hàn Dũ: « Mây ngang Tần Lĩnh biết nhà mình đâu?
Tuyết phủ Lam Quan ngựa khó qua ». Ý nói về nỗi đi xa, nên nhớ quê nhà, đê đầu tư cố hương!
 
Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.
(Thơ Đường)
 
Hai chữ Mây Tần hẳn là tâm sự của nhà văn Linh Bảo, theo sách vở ghi lại, bà phải sống cuộc đời xa quê hương. Bà vừa ra đi về miền miên viễn ở tuổi thọ 98, nhớ thương, tưởng niệm và cầu mong Linh Bảo siêu thăng tịnh độ quốc, tìm lại được mây Tần « nhựt mộ hương quan hà xứ thị ».
   
Nhắc đến hương quan hà xứ thị ? Nhất là nhắc lại Mây Tần, ta không khỏi nhớ đến đại thi hào Nguyễn Du, vì sao? Thưa, có lẽ vì tư tưởng của ông hiện diện ở mọi nơi, mọi lúc, với mọi người, trong tất cả mọi hoàn cảnh. Cái triết lý nhân bản của cụ Nguyễn Du đã được rất nhiều tác giả danh tiếng trình bầy. Tất cả, họ đều viết hay ở mọi khía cạnh, mọi chi tiết. Và truyện Kiều thì chúng ta bàn mãi cũng không chán và không hết, nên lúc này, CT xin mạn phép nhắc lại, có thể kể thêm vài chi tiết qua sự hoàn chỉnh luận án về triết lý nhân bản Kiều của tác giả linh mục Vũ Đình Trác.
   
Thưa, xin viết lại đây, chỉ là do lòng ưu ái với văn chương quê mẹ và cũng xin luôn nhớ về những tác giả luôn đầy ắp tâm tình gói gọn hai chữ Việt Nam.
   
Luận án của LM Vũ Đình Trác là một luận án triết học Việt Nam hoàn thành năm 1975 hoàn chỉnh và biện trình tại đại học Sophia, Tokyo, Nhật bản năm 1984, bản Việt văn do chính tác giả xuất bản và giữ bản quyền xuất bản năm 1993 « thời điểm công giáo » phát hành in tại NV Printing, Garden Grove, CA.
   
“Than ôi ! Một bước phong trần, mấy phen chìm nổi! Trời tình mù mịt, bể hận mênh mông. Sợi tơ mành theo gió đưa đi, cánh hoa rụng chọn gì đất sạch!
   
Ai dư nước mắt khóc người đời xưa? Thế mà giống đa tình luống những sầu chung, giọt lệ Tầm Dương chan chứa; lòng cảm cựu ai xui thương mướn? Nghe câu  ngọc thụ não nùng. Cho hay danh sĩ giai nhân, cùng kiếp hoa nghiêm nặng nợ. Ngán nỗi non xanh đất đỏ, để riêng ai lưu lạc đau lòng”.
   
Trên đây là lời mở đầu bài tựa Hán văn, đề tựa là Thanh Tâm Tài Nhân thi tập của Chu Minh Trinh, Đoàn Tư thuật dịch.
   

Công việc viết và sưu khảo, hệ thống tư tưởng một luận án, một cuốn sách dĩ nhiên mang lại nhiều lợi ích, có những lợi ích chung cho mọi người và bên cạnh cũng là lợi ích cá nhân. Nhưng ý muốn thực hiện và lòng đam mê của tác giả Vũ Đình Trác mang chủ đề rất Việt Nam, triết lý nhân bản truyện Kiều, thiết nghĩ đây là một ý thức về nguồn mạnh mẽ và thân mến cho chúng ta, mọi người Việt Nam đang sống xa rời mà luôn luôn gìn giữ tâm hướng về quê hương Việt Nam.
   
Truyện Kiều của Nguyễn Du, đa số người Việt Nam ai ai cũng biết nghĩa là đã nghe nói tới, đã thuộc vài câu hay thuộc nhiều đoạn, đã từng nghe lẩy Kiều, hay đã yêu và đã giảng nghĩa lưu loát về Kiều. Nói chung, đây là một tác phẩm rất nổi danh, rất được lưu truyền trong dân gian, phổ biến rộng rãi từ lãnh vực văn chương truyền khẩu sang văn chương bác học.
   
Người nhà quê Việt Nam, khắp Bắc, Nam, Trung vẫn có thể nằm võng đu đưa và thích chí đưa đẩy, ê a vài câu Kiều lẩy: “Còn non còn nước còn dài, Còn về còn nhớ tới người hôm nay ».
   
Câu này trích ở đoạn Kiều tiễn biệt Kim Trọng. Người bình dân ta cũng vậy, khi thương ai, nhớ ai và trông đợi thì ngân nga… còn khi tức tối thì cũng biết nổi đóa: “Ma đưa lối quỷ dẫn đường, Lại tìm những nỗi đoạn trường mà đi ». Nhưng chán chê rồi ai ai cũng nương theo Nguyễn Du mà tự giải thoát được những uẩn ức của cuộc đời, có thể gọi theo văn chương bác học là tri thiên mệnh: “Cho hay muôn sự tại trời, Trời kia đã bắt làm người có thân, Bắt phong trần phải phong trần, Cho thanh cao mới được phÀn thanh cao”… “Thiện tâm ở tại lòng ta
Chữ  tâm kia mới bằng ba chữ tài.”
   
Vì người ta yêu cầu chuyện mà viết thật nhiều sách để bàn về Nguyễn Du và triết lý Kim Vân Kiều. Sách bàn về Kiều có lẽ viết không bao giờ hết, càng viết càng giầu có, ý tưởng càng phong phú, tư tưởng càng rộng rãi và thâm thúy. Điểm cá biệt là bên cạnh đó, người bình dân Việt Nam không còn phải khó khăn lắm để đọc Kiều, vì cái bút pháp tự nhiên của Nguyễn Du: “Nghĩ đời mà ngán cho đời, Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.”
   
Khi nhớ quê hương, cha mẹ ở xa thì người học ít, học nhiều, người ở đâu đâu, chân trời, góc bể cũng đồng ý với cái buồn bã của Kiều mà cũng rung rung nước mắt: “Đoái thương muôn dặm tử phần, Hồn quê theo ngọn mây Tần xa xa”… “Xót thay huyên cỗi xuân già,
Tấm lòng thương nhớ biết là có nguôi.”
   
Truyện Kiều của Nguyễn Du xuất hiện vào thế kỷ XVIII là thời kỳ phồn thịnh của lịch sử văn chương Việt Nam.
 
Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.