Hôm nay,  

Những Bài Học Thật Sự Cho A Phú Hãn Từ Việt Nam

10/13/200900:00:00(View: 6557)

Những Bài Học Thật Sự Cho A Phú Hãn Từ Việt Nam

Ls Nguyễn Quang Trung phỏng dịch
(Bài đăng trên báo Wall Street Journal ngày 11 tháng 9 năm 2009. Tác giả, Lewis Sorley, là một nhà sử học và cựu Trung Tá Lục quân Hoa Kỳ.)
Hơn 30 năm đã trôi qua từ khi quân Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris ký năm 1973 tấn công và chiếm đoạt miền Nam Việt Nam. Kết quả này là do sự cung cấp quân cụ mạnh mẽ của cho miền Bắc từ các nước cộng sản. Đó cũng là kết quả khi Hoa kỳ đã không giữ lời hứa giúp đỡ miền Nam.
Những lời hứa hẹn giúp đỡ này gồm có việc giữ vững ủng hộ tài chánh, thay đổi các quân cụ, và dùng sức mạnh không quân để giúp miền Nam trong trường hợp miền Bắc tấn công. Việc thất tín này là từ một Quốc hội Hoa Kỳ vì đã mỏi mệt qua một thời gian dài liên hệ với cuộc chiến Đông Nam Á, và cũng không thèm để ý đến sự hy sinh của chính quân lực nhà hay của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Từ đó, bất cứ khi nào Hoa kỳ bước vào một cuộc chiến hay suy nghĩ để tham dự, những gì đã xẩy ra tại Việt Nam đều được đề cập đến. Rất là hợp hoàn cảnh để những kinh nghiệm chiến tranh được mang ra học hỏi xem có rút tỉa gì thêm không. Nhưng cũng rất hệ trọng là những cuộc tham chiến này cần phải hiểu chín chắn trước khi có một sự so sánh đúng mức. Khi đề cập đến chiến tranh Việt Nam, phần lớn những lời bình luận thường không đúng hay sai lạc làm cản đi việc hiểu rõ sự xung đột này hay kết quả của nó.
Tất cả các sách vở viết về chiến tranh Việt Nam của Stanley Karnow, Neil Sheehan, George Herring thường chú ý vào thời gian ban đầu khi Hoa kỳ tham chiến lúc Đại Tướng William C. Westmoreland còn cầm đầu quân đội. Từ đó, những người nhìn toàn thể chiến tranh Việt Nam ít hay nhiều rất cục bộ và tất cả các lời phê bình chỉ trích thừờng tập trung cho những năm đầu này, và quên đi những gì xẩy ra khi Đại Tướng Creighton Abrams cầm đầu quân đội sau cuộc Tổng Công Kích năm 1968.
Ông William Colby, người đứng đầu việc ủng hộ của Hoa kỳ cho chính sách hoà bình hoá miền Nam Việt Nam (sau này trở thành Giám Đốc cơ quan tình báo CIA) đã một lần lên tiếng các phê bình chỉ trích nêu trên giống như người Hoa kỳ hiểu về Đệ nhị thế chiến chấm dứt tại chiến trường Stalingrad, cuộc tấn công miền Bắc Phi Châu và đảo Guadalcanal (ý nói là quá giới hạn).
Bây giờ chúng ta mới biết, đáng ra nên biết, tất cả gần như thay đổi khi Tướng Abrams cầm quyền. Sự thay đổi này là do sự hiểu biết của Tướng Abrams về tình hình chiến tranh, và sự cương quyết gia tăng khả năng của quân đội miền Nam Việt Nam và loại bỏ những hạ tầng cơ sở nằm vùng của quân địch tại nông thôn có cùng một nhu cầu cần thiết như đánh giặc. Ngay cả các cách tham chiến cũng thay đổi rất nhiều.
Tướng Westmoreland đã tập trung việc gia tăng quân số Hoa kỳ (có lúc lên đến 543,400 quân vào năm 1969 theo sau nhiều lần yêu cầu) bổ xung tham gia chiến trường để dùng vào các chiến dịch lùng bắt gọi là "kiếm và diệt". Việc lượng định kết quả dựa vào con số quân địch tử trận là do từ sự suy nghĩ của Tướng Westmoreland nếu quân Bắc Việt và Việt Cộng chết nhiều quá họ sẽ tự ngưng tấn công miền Nam.
Tướng Westmoreland trong 4 năm trời cầm quân đã gây ra tử vong cho quân địch rất khiếp sợ. Nhưng miền Bắc Việt Nam đã không ngừng gửi càng ngày càng nhiều quân vào chiến trường. Tướng Westmoreland đã hoàn toàn không để ý đến việc tối quan trọng là tăng khả năng của quân đội miền Nam và ủng hộ chương trình hoà bình hoá, nhất là các chiến dịch dứt bỏ các hạ tầng cơ sở nằm vùng đã gây kinh hoàng và áp đặt cầm quyền lên người dân nông thôn.


"Hoà bình hoá làm ông Westmoreland chán nản" theo như lời Tướng Phillip Davidson, vị sĩ quan tình báo cao cấp của tướng Westmoreland cho biết. Chính vì thế các hạ tầng cơ sở nằm vùng của quân địch vẫn tiếp tục nắm giữ được quyền hành tại nông thôn. Trong khi đó, quân đội miền Nam Việt Nam tiếp tục bi thiếu thốn súng ống hơn quân địch lại phải giữ thêm vai trò về an ninh của đất nước họ (khi đó, quân đội Hoa kỳ đã có dư súng ống vẫn được ưu tiên thay đổi như súng M-16 chẳng hạn).
Những năm sau, Tướng Abrams cùng với Đại sứ Ellsworth Bunker và ông William E. Colby đã bầy ra một phương cách khả thi để điều hành chiến tranh khi quân đội Hoa kỳ bắt đầu rút quân.
An ninh cho miền Nam Việt Nam trở thành cách định lượng kết quả. Thay vì "kiếm và diệt", các chiến dịch nay tập trung chủ tâm vào "càn quét và giữ đất". Địa phương quân được tăng cường, huấn luyện và bổ xung súng ống để tham gia vào quân đội giúp giữ đất đai thêm.
Tướng Abrams, Đại sứ Bunker và ông Colby xem Tổng Thống miền Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu là "vị 'Việt Nam hóa' số 1." Đi ngược lại lời của các cố vấn mình là không nên giao súng ống cho người dân, ông Thiệu đã có những bước đi dũng cảm bằng cách tạo ra chương trình Nhân Dân Tự Vệ để giúp quân đội phòng thủ địa phương gìn giữ tỉnh lỵ của họ. Theo như cái nhìn của ông Thiệu và cũng theo như kết quả cho thấy thì "chính quyền phải dựa vào những ủng hộ của người dân, và không đúng nếu không dám  giao súng ống cho họ để phòng thủ địa phương." Kết quả tối hậu là có 4 triệu người dân đã gia nhập vào chương trình Nhân Dân Tự Vệ.
Ông Thiệu cũng tạo ra chương trình "đất cho người đi cày", đây là lần đầu tiên có một sự thay đổi đất đai thật sự đến nông dân miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1972, hơn 400,000 nông dân làm chủ đất của 2,500,000 mẫu đất. Làm công không đã bị diệt bỏ.
Tình báo khá hơn cùng với chương trình Phượng Hoàng (một chiến dịch loại bỏ hạ tầng cơ sở của quân địch) dần dần đã điểm mặt và diệt đi các hạ tầng cơ sở nằm vùng của địch. Phần lớn bị bắt tù hay ủng hộ chính quyền miền Nam, và cung cấp rất nhiều tin tức tình báo quý báu sau các cuộc lùng bắt như vậy.
Khi cuộc Đông Tiến của địch vào năm 1972 thì gần như hầu hết quân đội Lục quân Hoa kỳ đã rút lui. Với sự giúp đỡ bằng sức mạnh không quân của Hoa kỳ, quân đội miền Nam Việt Nam đã anh dũng đẩy lui cuộc tấn công của miền Bắc với số lượng quân tương đương với 20 sư đoàn, hay khoảng 200,000 lính.
Những kẻ chỉ trích thì cho là sự thành công này là nhờ vào sức mạnh không quân Hoa kỳ. Tướng Abrams không chấp nhận những lời phê bình này. "Người miền Nam Việt Nam phải đứng và đánh trả lại," ông nói nếu họ không làm như vậy "thì dù có mười lần sức mạnh không quân Hoa kỳ cũng không thể nào cản bước quân địch."
Khi quân đội Hoa kỳ rút khỏi miền Nam Việt Nam vào tháng 3 năm 1973 theo như Hiệp Định Paris, miền Nam Việt Nam đã có một chính quyền vững vàng và một quân đội trong tư thế tự lo để chống lại các cuộc tấn công từ miền Bắc sau khi Hiệp Định được ký kết nếu Hoa kỳ giữ lời hứa của mình. Khi Hoa kỳ không giữ những lời hứa này, miền Nam Việt Nam bị dứt điểm.
Các bài học từ quá khứ chỉ có kết quả tốt nếu chúng ta hiểu được quá khứ. Đây là một điểm quan trọng đặc biệt cần để tâm đến bây giờ, khi vị Tổng Tư Lệnh, các vị cố vấn an ninh quốc gia, và các vị lãnh đạo quân đội cao cấp đang xem xét bước kế tiếp để thực thi tại A Phú Hãn. So sánh lịch sử đứng đắn về Việt Nam rất hữu ích vì nếu dựa vào sự hiểu biết sai lầm về chiến tranh Việt Nam thì quá nguy hiểm và sai lạc.

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.