Hôm nay,  

Huyền Thoại Kennedy – Phần II

03/12/201300:00:00(Xem: 8502)
...cuối cùng thì số phận miền Nam cũng đã được quyết định từ Tòa Bạch Ốc...

Đúng ra kẻ viết này không có ý định viết về huyền thoại Kennedy một lần nữa, nhưng vì đã nhận được khá nhiều điện thư của độc giả, nêu lên nhiều vấn đề, nên phải viết tiếp để làm sáng tỏ vài điểm nhiều độc giả thắc mắc.

VẤN ĐỀ CHỦ QUYỀN

Trước hết là vấn đề chủ quyền của các chính phủ đệ nhất và đệ nhị Cộng Hòa.

Phải nói cho rõ, nói miền Nam chúng ta không có chủ quyền không có nghiã là miền Bắc có chủ quyền. Nếu công bằng so sánh hai miền, thì cả hai, chẳng miền nào thực sự có chủ quyền đối với các đại cường, nhưng dù sao, miền Nam vẫn có tiếng nói với Mỹ lớn hơn miền Bắc dám nói với Liên Xô hay Trung Cộng. Đây không phải là lý luận theo kiểu “ta giỏi hơn địch”, mà là sự thật có bằng chứng lịch sử.

Năm 1954, Hội Nghị Geneve bàn về chiến tranh Đông Dương, mở màn ngay sau khi Việt Minh chiến thắng tại Điện Biên Phủ. Nước Pháp sa sút không còn trong tư thế nói chuyện gì với CS hết. Tân Thủ Tướng Mendes France long trọng hứa sẽ tìm ra giải pháp cho Đông Dương trong vài tuần, hay nói trắng ra, sẽ tìm ra cách đầu hàng đỡ mất mặt nhất. Tất cả mọi chính phủ tham gia đàm phán đều đồng ý chia đôi VN. Vấn đề tranh cãi là chia đôi ở đâu. Pháp đòi vỹ tuyến 17. Việt Minh ngắm nghé vỹ tuyến 15 để có được Huế và Đà Nẵng. Nga và Trung Cộng không muốn lằng nhằng sợ Mỹ nhẩy vào cuộc chiến nên chấp nhận vỹ tuyến 17. Thủ tướng Phạm Văn Đồng họp riêng với cả TT Chu Ân Lai và Ngoại Trưởng Molotov, để vận động hậu thuẫn nhưng bị cả hai “đồng minh” bỏ rơi, đành chấp nhận vỹ tuyến 17, rồi sau đó đã lẩm bẩm càu nhàu cho đến sau năm 75 vẫn còn than vãn nếu có hậu thuẫn mạnh hơn của các đàn anh thì đã chiến thắng, thống nhất VN dễ dàng hơn rồi.

Nói cách khác, các đàn anh đã quyết định, Việt Minh không có tiếng nói, không làm gì khác được. Chủ quyền của Việt Minh không có gì hết.

Ngay cả “chiến thắng lịch sử “ tại Điện Biên Phủ cũng đang được xét lại. Vai trò của tướng Võ Nguyên Giáp rất có thể chỉ là bình phong, trong khi trận đánh hoàn toàn do tướng lãnh và chính ủy Trung Cộng quyết định. Súng ống, đại bác dĩ nhiên là của Trung Cộng tiếp viện từ kho vũ khí khổng lồ chiếm được của Tưởng Giới Thạch. Chỉ có hàng vạn bộ đội bị thí vào mặt trận là thanh niên Việt.

Trong khi đó, miền Nam, tuy cũng không có đầy đủ chủ quyền muốn làm gì thì làm, nhưng trong cả hai chế độ đệ nhất và đệ nhị Công Hòa, đều đã có dịp có tiếng nói cưỡng lại những quyết định quan trọng nhất của Mỹ.

Dưới TT Diệm, Mỹ đã muốn mang quân tác chiến vào VN thay vì chỉ có một số ít cố vấn quân sự, nhưng đã bị TT Diệm bác, không chấp nhận. Ngay cả các tướng lãnh sau khi đảo chính, cũng không có thiện cảm với chuyện lính Mỹ trực tiếp tham chiến. Phải đợi đến sau khi tình hình chiến sự VN sa sút quá mức, sau những xáo trộn trầm trọng gây ra bởi những chỉnh lý liên tục của các tướng, với những thay đổi tư lệnh chiến trường không ngừng, đe dọa sự sống còn của cả miền Nam, năm 1966, thì Mỹ mới được mang quân vào.

Nên nhớ là chưa khi nào có một chính quyền miền Nam nào chính thức yêu cầu Mỹ cho quân tác chiến vào giúp. TT Diệm và các cấp lãnh đạo dân sự và quân sự sau 63 đều tin tưởng quân lực VNCH có thể đương đầu với quân CSBV, chỉ cần hỗ trợ vũ khí đạn dược thôi. Chỉ có các TT Dân Chủ Kennedy và Johnson là coi quân lực VNCH không ra gì nên nhất định phải mang lính Mỹ vào mà không cần biết đến hậu quả chính trị. Những nhận định bất lợi nhất cho quân lực VNCH trong suốt cuộc chiến cũng đến từ những dân biểu và nghị sĩ của đảng Dân Chủ, kể cả thượng nghị sĩ John Kerry, bây giờ là ngoại trưởng. Ta không quên ông Kerry đã từng ra trước quốc hội công khai tố lính VNCH chỉ giỏi ăn cắp gà và hãm hiếp phụ nữ.

Dưới TT Thiệu, những thoả thuận giữa BV và Mỹ đã bị TT Thiệu bác bỏ, không chịu ký trong mấy tháng, cho đến khi hiệp định được sửa vài điều quan trọng nhất, và sau khi đã ép TT Nixon dội bom ào ạt Hà Nội mùa Giáng Sinh 1972, ông mới chịu ký. Hiệp định không hoàn hảo đưa đến chuyện mất miền Nam, nhưng đỡ hơn bản thảo đầu nhiều. Có thể nếu không có sự chống đối của TT Thiệu thì miền Nam tự do đã bị khai tử trước vài tháng hay một hai năm không chừng.

Qua cả hai câu chuyện, ta thấy ngay, cuối cùng thì số phận miền Nam cũng đã được quyết định từ Tòa Bạch Ốc, dưới tổng thống Dân Chủ hay Cộng Hoà cũng chẳng có gì khác, và với thân phân tiểu quốc, ta cũng chẳng làm gì được. Nhưng dù sao thì cũng không ai có thể chối cãi được cả TT Diệm lẫn TT Thiệu, đều đã có dịp cưỡng lại quyết định của đồng minh, trong khi miền Bắc thì dù bất mãn đến đâu, cũng không dám làm gì khác ngoài chuyện vâng dạ rồi lẩm bẩm cho đỡ bực.

VẤN ĐỀ MIỀN NAM “THUA”

Có nhiều độc giả vẫn thắc mắc không hiểu tại sao quân lực VNCH có thể “thua” được.

Thật ra, phải định nghiã lại cho rõ thế nào là “thua”. Nếu “thua” là hai bên ra trận đánh nhau, dốc toàn lực sống mái với nhau, rồi một bên vì sai lầm chiến lược hay chiến thuật nên bị bên kia đánh bại, phải tháo chạy, thì đó đúng là thua.

Cuộc chiến VN chấm dứt khác xa trường hợp trên.

Như đã nhận định trong bài viết tuần trước, “Khi Mỹ muốn đánh thì cấp súng đạn cho ta đánh, khi Mỹ muốn tháo chạy thì mang súng đạn về, kể cả ngòi bom CBU”. Sau khi TT Nixon đã bắt tay được với Mao thì Mỹ thấy không còn lý do gì can dự vào cuộc chiến VN nữa, và quyết định rút về.

Đây là một quyết định nằm trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Nhưng cũng là một quyết định được lấy vì những nhu cầu chính trị nội bộ Mỹ. TT Nixon bị vướng mắc vào xì-căng-đan Watergate không có lối thoát, với hậu thuẫn quần chúng gần như mất hết, trong khi hậu thuẫn chính trị trong giới chính khách Mỹ và trong quốc hội lung lay tận gốc rễ. TT Nixon không còn thời giờ để lo chuyện VN, cũng như đang có nhu cầu lấy lại phần nào hậu thuẫn để đối phó với Watergate đang đe dọa chính cái ghế tổng thống của ông. TT Ford kế nhiệm trong tư thế tổng thống duy nhất không được dân bầu trong lịch sử Mỹ, không có đủ hậu thuẫn chính trị lật ngược quyết định rút, nhất là khi đó ông lại hoàn toàn bị Kissinger thao túng.

Một khi đồng minh Mỹ muốn rút thì sẽ mang súng đạn rút theo. Khi đó quân lực VNCH đánh nhau bằng gì?

Trong khi đó, trực diện chúng ta là miền Bắc với hậu thuẫn cụ thể bằng tiền bạc, và súng đạn không giảm chút nào. Một nửa triệu quân Mỹ với đầy đủ bom đạn vô giới hạn và ngân sách bạc trăm tỷ đã không hạ được quân Bắc Việt với viện trợ quân sự hùng hậu của khối CS. Bây giờ ai có thể nghĩ quân lực VNCH có thể ngăn được làn sóng đỏ, với viện trợ của Mỹ trên nguyên tắc có thể “thay thế tiêu hao” như Hiệp Định Ba Lê quy định, nhưng trên thực tế chẳng thay thế được gì, mà chỉ vơi dần thật mau lẹ? Quân lực đó cầm cự được tới 1973 là giỏi lắm rồi.

Hiển nhiên cái “thua” đó không phải là thua theo nghiã bình thường. Bị lấy đi vũ khí, trói tay lại, đưa ra trước trận đấu, thì không còn là trận đấu và không còn nói đến thắng hay thua được nữa.

Ta thất bại vì đồng minh quyết định thôi, không chơi nữa, phủi tay bỏ đi. Chủ quyền có thể được xác định một cách tiêu cực bằng cách phản đối không nghe theo hay làm theo một chuyện gì, nhưng không thể xác định một cách tích cực như bắt đồng minh phải tiếp tục hậu thuẫn, tiếp tục viện trợ được.


CÁI CHẾT CỦA TT DIỆM

Tác giả có đưa ra ý kiến có lẽ TT Kennedy đã không trực tiếp “ra lệnh” giết TT Diệm, mà cái chết của TT Diệm chỉ là một “rủi ro” lớn mà TT Kennedy chấp nhận. Vài độc giả cho rằng đã có tài liệu xác nhận TT Kennedy đã đích thân chỉ thị cho các viên chức Mỹ tại VN phải “giúp” các tướng lãnh VNCH diệt tận gốc, tức là giết TT Diệm, không có chuyện cho TT Diệm tỵ nạn chính trị tại Mỹ hay một nước đồng minh nào khác như Thái Lan, Phi Luật Tân hay Đài Loan.

Đúng ra, tác giả cũng đã được biết là đã có một nhà báo uy tín Mỹ đang chuẩn bị ra một cuốn sách mới, đưa bằng chứng rõ ràng TT Kennedy đã “ra lệnh” phải giết TT Diệm, chứ không phải đó là ý kiến của một trong các phụ tá như các ông Harriman, Hilsman, hay của đại sứ Cabot Lodge.

Cuốn sách chưa phát hành, chưa ai thấy những bằng chứng sẽ được đưa ra, và tính thuyết phục của những bằng chứng đó. Do đó, tác giả chưa thể bàn xa hơn. Nhưng có thể cuốn sách đó cũng lại sẽ rơi vào trường hợp của không biết bao nhiêu tài liệu khác về vấn đề này. Chỉ đổ dầu vào lửa, tạo thêm tranh cãi về vấn đề, mà vẫn chưa ai dám nói là có câu trả lời tối hậu.

Chúng ta hãy chờ sau khi cuốn sách đó phát hành để có dịp nhìn lại câu chuyện. Hy vọng cuốn sách đó sẽ có bằng chứng cụ thể không tranh cãi được để chúng ta hiểu rõ hơn một biến cố trọng đại trong lịch sử nước ta.

VẤN ĐỀ LÀO

Một vài độc giả nêu vấn đề Hiệp Ước Trung lập Lào do TT Kennedy chủ xướng, có ảnh hưởng rất lớn lên cuộc chiến tại VN, nhưng lại không thấy đề cập trong bài viết của tác giả này. Tác giả đã không đề cập vì khuôn khổ giới hạn của bài báo.

Hiệp Ước Trung Lập Hoá Lào năm 1962 đại cương cũng chỉ là một thất bại khác của TT Kennedy. Cuộc nội chiến tại Lào, khởi mào từ ngay sau Thế Chiến Thứ Hai, được gắn liền với cuộc chiến tại VN, với diễn biến tương tự, rối bù, và sự toàn thắng của khối cộng năm 1975.

Nội chiến Lào là cuộc chiến tay ba giữa lực lượng cộng sản của đảng Neo Lao Hak Xat, thường gọi là Pathet Lào, lực lượng thân Mỹ, và lực lượng trung lập của Hoàng Gia.

Pathet Lào chiếm cứ vùng đông và bắc, giáp giới VN và Trung Cộng. Lực lượng thân Mỹ chống cộng chiếm cứ vùng tây nam, giáp giới Thái Lan, với lực lượng H’mong là chủ yếu. Lực lượng trung lập, trung thành với vua, kiểm soát vùng quanh thủ đô Vạn Tượng và thành phố lớn Luang Prabang. Đây là một cuộc chiến hết sức phức tạp, với ba phe thay phiên nhau đạt thế thượng phong, hợp tác rồi chia rẽ, với liên minh thay đổi qua lại, chẳng khác gì thời Tam Quốc Chí bên Tầu, với các lực lượng quân sự của nhiều nước đứng sau lưng. Trên thực tế, cả ba phe của Lào đều hết sức yếu về mặt quân sự, mỗi phe lèo tèo vài ba tiểu đoàn chẳng có gì là thiện chiến. Dân Lào có lẽ là dân hiền hòa nhất thế giới, không biết đánh nhau là gì. Và cuộc chiến thật sự là cuộc chiến giữa hai khối CS với Trung Cộng và CSVN một bên, chống Tây Phương, trước là Pháp, sau đó là Mỹ, với sự góp sức của Thái Lan và VNCH sau này.

Sau thất bại nặng nề tại Vịnh Con Heo bên Cuba, TT Kennedy quyết định vạch lằn ranh đỏ, quyết tâm giữ Miền Nam VN. Ông nhìn thấy rõ Bắc Việt chỉ có một con đường xâm nhập duy nhất qua ngõ Lào. Chiến lược cơ bản của Mỹ là làm sao đóng cái cửa ngõ này. Và giải pháp theo TT Kennedy là một hiệp ước trung lập hoá Lào, không cho các lực lượng CSVN dùng đất Lào để chuyển quân vào Nam VN. Đưa đến sự ra đời của giải pháp 1962.

Theo TT Kennedy, trường hợp lạc quan nhất thì việc trung lập hoá sẽ đóng cửa con đường xâm nhập Lào (khi đó chưa quy mô và chưa được gọi là đường mòn Hồ Chí Minh), giúp cô lập lực lượng CS trong miền Nam VN. Trường hợp bi quan nhất thì ít ra, cũng giới hạn được phần lớn sự xâm nhập của quân Bắc VN vào Nam VN qua một hiệp ước quốc tế có Nga và Tầu ký.

Những diễn biến lịch sử sau đó đã cho thấy TT Kennedy tính sai hết, chỉ vì thiếu kinh nghiệm đối phó với sự giảo hoạt của CS. Hiệp ước trung lập Lào, cũng giống y hệt tất cả các hiệp ước được ký kết giữa khối Âu-Mỹ với khối CS, kể cả hai hiệp ước Geneve 1954 và Paris 1973: trói tay khối Tây Phương nhưng lại chỉ là mảnh giấy vụn đối với khối CS. Sau khi hiệp ước ra đời, Mỹ rút hết gần 1.000 cố vấn quân sự ra khỏi Lào, VNCS rút về vài chục “cố vấn”, còn lại cả sư đoàn chính quy được cho mặc quần áo Pathet Lào, gia nhập lực lượng Pathet Lào, ở lại tiếp tục trấn áp các lực lượng chống cộng và trung lập. Đường mòn Hồ Chí Minh bây giờ hoàn toàn mở rộng dưới sự kiểm soát trọn vẹn của CSBV.

Lực lượng CSBV qua khối 959, thành lập tháng 9 năm 1959 để hỗ trợ Pathet Lào, trở thành lực lượng quân sự bảo vệ “đường mòn”, khi đó bắt đầu lớn dần cho đến khi thành “xa lộ” sau này. Mỹ vớt vát bằng cách hỗ trợ các lực lượng H’mong của tướng Vang Pao cho đến 1975, nhưng lực lượng này cũng chỉ là vài viên sỏi nhỏ trên đường nam tiến của CSVN qua ngã Lào.

ĐỜI SỐNG CÁ NHÂN

Tác giả đã tránh không viết về đời sống cá nhân, nhưng có độc giả hỏi sao không nói về đời sống cá nhân của TT Kennedy với bà vợ đẹp và hai con ngoan, là “gương mẫu” –role model- cho xã hội Mỹ, kiểu như TT Kennedy đã tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ như thế nào. Vậy xin nói qua vấn đề.

TT Kennedy bị bệnh đau lưng kinh niên, những năm cuối phải ngồi ghế đặc biệt. Ngay cả hôm ông bị ám sát, trong người cũng phải mặc áo đặc biệt, giữ lưng ông thẳng, nên khi bị bắn từ sau lưng, đã không ngã gập người xuống phiá trước, mà lưng vẫn thẳng, ngã nghiêng người qua một bên về phiá bà Jakqueline Kennedy. Bệnh đau lưng chính thức là do ông bị thương ở lưng từ hồi đi hải quân trong Thế Chiến Thứ Hai.

Có tin cho rằng ông thật ra bị đau thận vì sắc dục quá độ. Ông bị bệnh nghiện sex rất nặng, gần như ngày nào cũng phải làm tình, không có không được. “Tôi sẽ bị nhức đầu nếu mỗi ngày tôi không làm tình một lần”, đó là câu tâm sự của TT Kennedy. Ban mật vụ -Secret Services- đặc biệt phải lo cung cấp gái cho ông mỗi khi ông đi kinh lý, hay xa bà vợ. Có thể là tài tử hay ca sĩ thượng thặng như Marilyn Monroe và Angie Dickinson, và ngay cả tài tử Marlene Dietrich (khi đó đã trên 60 tuổi và từng là người tình của bố TT Kennedy), hay gái gọi hạng siêu sang. Phần lớn các cô thư ký Tòa Bạch Ốc, kể cả tùy viên báo chí của bà Kennedy, đều đã qua đêm với ông. Ông đã từng chia sẻ một bà đào với trùm mafia Chicago, Sam Giancana, đưa đến giả thuyết ông bị Giancana thuê Oswald ám sát vì ghen. Bà Kennedy biết rõ nhưng làm ngơ vì không đáp ứng nhu cầu sinh lý quá mức của ông chồng được.

Cả họ Kennedy, từ ông bố đến ông tổng thống và hai ông em Robert và Ted đều nổi tiếng về chuyện trăng hoa. TT Clinton so với TT Kennedy chỉ là anh học trò dốt, ăn vụng không biết chùi mép.

Truyền thông thời đó biết rất rõ, nhưng đã đồng tình lờ không đăng những chuyện này. Hình ảnh gia đình đầm ấm của TT Kennedy cũng vẫn chỉ là một huyền thoại khác được dàn dựng thật khéo. (1-12-13)

Vũ Linh

Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: [email protected]. Bài của tác giả được đăng trên Việt Báo mỗi thứ Ba.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
Thế giới vừa điên đảo vì Trump 2.0 lại phải lo đối phó với Trung Quốc 2.0. Trung Quốc 1.0 là công xưởng quốc tế dựa vào giá nhân công rẻ và giá trị gia tăng thấp để sản xuất các hàng hóa tiêu dùng trong dạng Bộ Ba Cũ: (1) quần áo, đồ chơi trẻ em…; (2) vật dụng trong nhà như bàn ghế, tivi, tủ lạnh…(3) đồ điện tử gồm điện thoại cầm tay, máy điện toán,…) Trung Quốc 1.0 kéo dài 25 năm bắt đầu từ lúc Đổi Mới thập niên 1990 cho đến giữa thập niên 2010...
Giữa lúc các cơ quan báo chí, các tập đoàn truyền thông lớn khác chọn “sự trung lập” và cố gắng “nương tay” với các chính trị gia và chính quyền, thì Stephen Colbert chọn sự trung thực, kiên định, xem tuyên ngôn “trung lập” theo lý thuyết báo chí là vở kịch hài không hợp thời cuộc. Ông châm biếm, chỉ trích không thương tiếc những quyết định vi hiến, những phát ngôn dối trá của chủ nhân Tòa Bạch Ốc.
Những người đấu tranh cho quyền hợp pháp của di dân có trong Tu chính án thứ Tư và thứ Năm của Hiến Pháp, vui mừng gọi phán quyết của chánh án liên bang hôm thứ Sáu 11/7 là “chiến thắng.” Chánh án Maame E. Frimpong ra phán quyết các cảnh sát di trú ở Nam California phải tạm dừng việc bắt giữ, tra hỏi di dân chỉ dựa vào chủng tộc hoặc ngôn ngữ Tây Ban Nha. Nhưng Jaime Alanís Garcia, 57 tuổi, người làm việc ở nông trại Glass House Farms, quận Ventura 10 năm, đã không có cơ hội vui với chiến thắng tạm thời này. Với ông, và gia đình ông, tất cả đã quá muộn. ICE đã thực hiện cuộc đột kích quy mô lớn ở nông trại Glass House Farms gần Camarillo, quận Ventura hôm thứ Năm 10/7. Đoạn video ghi lại cảnh những chiếc xe bọc thép có chữ Police rượt đuổi theo nhóm nông dân tháo chạy hoảng loạn. Càng chạy, xe càng lao tới, bất kể có người đang cố bám vào đầu xe để chặn bánh xe lăn. Súng hơi, đạn cay mù mịt trên cánh đồng từng rất yên ả với những cây cà chua, dưa leo, và cây cannabis có giấy phép.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.