Hôm nay,  

Đại Sứ Martin Bị Chỉ Trích Về Cuộc Di Tản Tại Sài Gòn Tháng 04.1975

29/04/202109:43:00(Xem: 2284)

* Kế hoạch di tản của Bộ Quốc Phòng
* Kế hoach di tản của Bộ Ngoại Giao
* Đại sứ Martin: QLVNCH chiến đấu với lòng quả cảm đáng kinh ngạc

Dao Van 01
 Về chiến dịch di tản tại Sài Gòn trước biến cố tháng 4.1975, theo thư viện CIA có  lưu bài báo của tờ <<  New York Times ... >> : Ông Martin đã bị chỉ trích gay gắt về cách điều hành cuộc di tản, trong đó hàng ngàn người Việt Nam làm việc cho Hoa Kỳ và hàng trăm tài liệu mật bị bỏ lại - Mr. Martin was sharply criticized for his handling of the evacuation, in which thousands of Vietnamese who worked for the United States and hundreds of classified documents were left behind. Một số quan chức cáo buộc rằng ông đã làm trầm trọng thêm tình hình khi không ra lệnh cho quân đội Mỹ rời Sài Gòn- Some officials charged that he had aggravated the situation by not ordering American troops out of Saigon".  Việc di tản tiến hành ra sao, tưởng nên đọc  lại kế hoạch và diễn tiến  chiến dịch di tản khỏi Sài Gòn hồi tháng 4.1975.  Phần  tóm lược sau  dựa vào các bản văn  được loan tải trên thư viện online của Bộ Ngoại Giao,  thư viện online của CIA và cơ quan truyền thông Bộ Quốc Phòng (Media Defense Gov.)
 
** Kế hoạch di tản của Bộ Quốc Phòng
Theo tài liệu viết về cuộc di tản  tiêu đề: << Defense.Gov:HISTORY’S LARGEST AERIAL EVACUATON >>:  "Chương này tập trung vào các giai đoạn đầu tiên của tiến trình di tản khỏi Sài Gòn. Do kết quả kiểm nghiệm  từ cuộc di tản tại  Pleiku, Đà Nẵng, và một số thành phố khác, do đó, Cơ quan  Tùy viên Quốc phòng (DAO) phải điều chỉnh lại kế hoạch của mình đồng thời  phải tự lo liệu  việc phòng thủ. Việc cắt giảm nhân sự Hoa Kỳ tại Sài Gòn đã bắt đầu. Một trong những bước đầu tiên là khuyến khích những người phụ thuộc và những người trong danh sách nhân sự không cần thiết,  phải  chuẩn bị cho  khởi hành trước.   Chính phủ Việt Nam vẫn yêu cầu phải có  chiếu khán và thị thực xuất cảnh đối với bất kỳ người Việt Nam khi rời khỏi đất nước.  Yêu cầu về “giấy tờ” buộc những công dân Mỹ có người thân quốc tịch Việt Nam phải trì hoãn trên diện rộng,  yếu tố này gây cản trở cho toàn bộ cuộc di tản. Ngoài ra, bộ máy hành chính của hệ thống Dịch vụ Dân sự Hoa Kỳ, với tất cả các thủ tục và biện pháp bảo vệ hiện hành, đã gây ra  trở ngại đáng kể trong việc buộc nhân viên Hoa Kỳ rời khỏi đất nước.
   Trong những ngày đầu tiên của tiến trình cắt giảm, tất cả các máy bay hiện có đã được sử dụng. Bao gồm các máy bay thương mại cũng như các máy bay của Bộ Chỉ huy Không vận Quân sự và các máy bay ký hợp đồng được chỉ định cho chiến dịch “Babylift”.
 
Di tản bằng đường biển (từ miền Trung vào miền Nam)
   Vào ngày 1 tháng 4, Trung tâm Kiểm soát Sơ tán bắt đầu hoạt động, đúng lúc này phải đối mặt với những vấn đề ngày càng gia tăng. Vì không ai có thể  đoán trước được rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam  xảy ra một cách chóng mặt như vậy.
  Cuộc di tản người tị nạn đi khỏi các Quân khu 1 và 2 được chứng minh là một cơn ác mộng đối với cả chính phủ Việt Nam và phía Mỹ. Số tàu thuyền tham gia có tám tàu đã ký hợp đồng với Bộ Chỉ huy Quân sự Sealift, cùng với một số tàu của Hàn Quốc, Trung Hoa Dân Quốc, Anh và Philippines. Hải quân Việt Nam cam kết sử dụng mọi tàu có sẵn để di tản binh lính, quân dụng và hàng hóa.
   Việc di tản người tị nạn tại miền Trung ban đầu dự tính là chở  đến Cam Ranh và Nha Trang, nhưng khi Quân đội Bắc Việt Nam tiến công quá nhanh đã  đe dọa các cảng này.  Cho nên tàu thuyền chở  những người tị nạn phải tiến về phía Nam. Một số đổ bộ vào Vũng Tàu (chủ yếu là quân đội), còn lại chở  đến đảo Phú Quốc để giảm bớt lượng người tị nạn  ở Sài Gòn."
 
* Di tản bằng đường hàng không (từ Sài Gòn ra nước ngoài)
"Trong bài phát biểu trước quốc dân vào ngày 11 tháng 4, Tổng thống Ford hứa sẽ di tản các công dân Việt Nam thuộc nhiều thành phần khác nhau. Bài phát biểu của Tổng thống Ford nhằm củng cố và xác nhận lời hứa với Đại sứ Martin là sẽ di tản tất cả các nhân viên phái bộ Hoa Kỳ và gia đình của họ, vì một số người ở Sài Gòn lo sợ  rằng nếu bị bỏ  rơi, thời họ sẽ gặp nguy hiểm bởi những người CSBV. Có khoảng 17.000 nhân viên trong đoàn Mission, tính  trung bình có bảy thành viên mỗi gia đình, như vậy con số sẽ là khoảng 119.000 người Việt Nam phải di tản. Ngoài ra còn có  các nhóm khác của Việt Nam đã cam kết được di tản, vì vậy  tổng số có thể  tăng lên khoảng 200.000. Trong khi đó các phương án của Kế hoạch CINCPAC 5060 (biệt danh là TALON VISE) ban đầu không xác định số lượng cụ thể những người di tản khỏi  Việt Nam là bao nhiêu.
    Về thủ tục giấy tờ để xuất ngoại, vào ngày 19 tháng 4, Đô đốc Noel Gayler, trong chuyến thăm  với Đại sứ Martin, đã đề nghị rằng chỉ cần “một tờ giấy đơn giản do  người bảo trợ  ký cam kết rằng người  cùng đi theo  là thân nhân  và họ sẽ phải chịu trách nhiệm khi rời VNCH.”  Đề nghị đã được chấp thuận, bản cam kết  được soạn thảo, phổ biến, và được sử dụng vào chiều hôm đó. Theo Thiếu tướng Smith, "Điều này đã giải quyết được tất cả các trở ngại về thủ tục giấy tờ và khiến nhiều người Mỹ không còn lý do gì để ở lại Việt Nam".
 
01/4 - 19/4.1975 -"Kể từ ngày 1 đến ngày 19 tháng 4, số người được di tản (có giấy phép)  khoảng 5.000 người  và  bắt đầu tăng vào sáng ngày 20 tháng 4, vì rào cản giấy tờ  đã được gỡ bỏ."
21.04.1975 -"Bộ chỉ huy Không vận quân sự đang chuẩn bị cho  đợt không vận tối đa. Tùy viên Quốc phòng  đã yêu cầu 26 phi vụ  (mỗi phi vụ  tối thiểu 72 ghế) cho đến ngày 21 tháng 4. Bộ chỉ huy Không vận quân sự đã phê duyệt 21 phi vụ (mỗi phi vụ 94 ghế). Phi cơ  C-I41 có thể chở hơn 94  quân nhân với trang bị chiến đấu."
22.04.1975"Rạng sáng ngày 22 tháng 4, Trung tâm Kiểm soát Di tản thông báo rằng 20 chiếc C-14I sẽ đến với khoảng thời gian 90 phút trong ngày. Hai chiếc đầu tiên sẽ vận chuyển hàng hóa, và phần còn lại sẽ chở 94 hành khách mỗi chiếc. Vào đêm nay, 20 chiếc C-130 bay từ căn cứ không quân U-Tapao, Thái Lan,  mỗi chiếc có khả năng chở 75 hành khách."
 
* Ước tính sai kế hoạch
25.04.1975 - "Đến ngày 25 tháng 4, số người di tản  lên đến 6.000 người. Tại Nhóm Hoạt động Hỗ trợ của Hoa Kỳ-7th AF, lập kế hoạch đưa 200.000 người di tản khỏi Việt Nam sẽ được hoàn thành vào ngày 25 tháng 4 năm 1975. Kế hoạch 200.000 trở thành Phương án V của  chiến dịch "FREQUENT WIND". Phương án này giả định rằng khu vực cảng tại Sài Gòn hoặc tại Vũng Tàu (cùng với tuyến đường bộ Sài Gòn-Vũng Tàu) sẽ vẫn an toàn. Nhưng thực tế giả định trên được chứng minh là sai, và nỗ lực lập kế hoạch đã trở nên lãng phí-Since the assumption proved false, the planning effort went to waste."
"Về giới hạn trọng tải chuyên chở  hành khách, thông thường giới hạn ở mức  94 hành khách với chiếc  C-141 và 75 khách  đối với C-130. Nhưng khi bắt đầu  chiến dịch FREQUENT WIND, các quy tắc thời bình đã được bãi bỏ và tải trọng tiêu chuẩn là 180 hành khách  được áp dụng cho cả hai loại máy bay trên."
"Kết quả cuộc di tản  tính đến ngày cuối cùng cộng lại, có tổng cộng 1.422 phi vụ đến Sài Gòn, một con số khá  ấn tượng. Về phần tổn thất khi thi hành chiến dịch, bị  mất 3 phi cơ, gồm một chiếc A-7 của Hải quân, một chiếc AH-lJ của Thủy quân lục chiến, và một chiếc CH-46, tất cả đều bị rơi xuống  Biển. Về  nhân sự, có hai thủy thủ đoàn trên chiếc CH-46 bị mất tích."

Dao Van 02
 
** Kế hoạch di tản của Bộ Ngoại giao
Theo thư viện của Bộ Ngoại Giao có ghi lại nội dung các bức  diện trao đổi giữa Đại Sứ Martin với TS Kissinger, Phụ tá cố vấn TT Ford Scowcroft , và Tư Lệnh Lực Lượng Mỹ Vùng Thái Bình Dương Đô Đốc Gayler.
 
18.04.1975 -<<Martin to Kissinger>>:Chúng tôi sẽ giảm số người trong  cộng đồng người Mỹ ở đây xuống còn 2.000 người vào thứ Ba. Để thực hiện được điều này, chúng tôi sẽ cắt giảm một số  thủ tục.  Tôi đã đặt mục tiêu là 1.700 người Mỹ còn lại ở đây trước   ngày  Thứ Ba 22 tháng 4, theo giờ Washington. Có thể  có sự sai sót nhỏ về mục tiêu đã đề ra.  Chúng tôi sẽ giảm thiểu  dưới con số 2.000 trong điện tín của ông. Tôi hy vọng sẽ giảm hơn nữa trong những ngày tiếp theo."
19.04.1975 -<< Kissinger to Martin  >>: "Về tình hình quân sự xung quanh Sài Gòn và mưu đồ  của phía Hà Nội đã đến mức tôi phải yêu cầu ông  giảm ngay số người Mỹ  hiện diện xuống mức 1.100  vào ngày Thứ Ba" 
21.04.1975 -<< Kissinger to Martin >>:Ông  nên biết rằng chúng tôi hoàn toàn không liên quan gì đến sáng kiến của Pháp. You should know that we have had absolutely nothing to do with the French initiative. Chúng tôi sẽ đánh giá cao việc ông  cung cấp thông tin cho chúng tôi về họ (Pháp) trong phạm vi ông tìm hiểu về họ".
    Đối với Liên Xô, chúng tôi đã đề nghị một lệnh ngừng bắn tạm thời (khoảng hai tuần) để di tản  người Mỹ và một số người Việt Nam và bàn về các thỏa thuận chính trị. Chúng tôi đã ghi nhận  một số dấu hiệu về sự quan tâm nghiêm túc nhưng vẫn chưa có câu trả lời chính thức nào."
22.04.1975 -<<Martin to Kissinger>>:Đến nửa đêm  nay, chúng tôi dự kiến sẽ giảm xuống dưới 1.500 người trong tổng số công dân Mỹ còn lại, và có thể xuống 1.000 người vào nửa đêm ngày mai. Đây là một mục tiêu hoàn toàn không thể đạt được nhưng đội ngũ nhân viên tận tâm làm việc đã đạt được con số này. Vào tối hôm sau, chúng tôi sẽ giảm số lượng cần thiết, bao gồm cả nhân viên Ngoại giao đoàn và những người khác. Hôm nay tôi vừa nói chuyện với Tướng Carey, Tư Lệnh Lực Lượng mặt đất, và tôi nghĩ mọi thứ sẽ  ổn thỏa."
23.04.1975 -<< Martin to Kissinger >>Kể từ khi Hương đột ngột trở thành Tổng thống, tôi không nghĩ rằng ông ta có bất kỳ quyết định chắc chắn nào về các câu hỏi được đưa ra trong điện tín của ôngTương lai của ông ta  sẽ được quyết định một phần bởi những tác động và áp lực bên ngoài, đa phần  trong số đó sẽ nằm ngoài khả năng kiểm soát của ông  ta-will be partly determined by outside influences and pressures, many of which will be beyond his ability to control..(Ghi chú: "các câu hỏi được đưa ra trong điện tín"  của TS Kissinger chưa được giải mật ).
25.04.1975 -<< Martin to Scowcroft >>(Phụ tá Cố vấn TT Ford): " Tổng thống Hương đã khăng khăng rằng Thiệu phải rời khỏi đất nước trước khi ông ta đưa ra quyết định cuối cùng về việc chuyển giao quyền lực cho Big Minh-President Huong was insistent that Thieu be out of the country before he made his final decision on the transference of power to Big Minh. Chúng tôi xét thấy thực sự rất có ích lợi  trong tiến trình chuyển đổi suông sẻ, tôi đã  đồng ý để tạo điều kiện cho họ sớm ra đi khỏi Việt Nam."
26.04.1975 -<< Martin to Kissinger >>:"Trong bất kỳ trường hợp nào, việc tạm trú  cho người tị nạn  Việt Nam khi đến Philippines, đến Guam, và bây giờ chở họ đến Wake sẽ bị chậm lại nếu thiếu  sự chuẩn bị. Sẽ rất hữu ích nếu ông để ý đến vụ này ở Guam trước khi nó trở thành một vấn đề chính trị".
28.04.1975 -<<Kissinger to Martin>>:" Nhận định của tất cả các cơ quan sáng nay,  chúng ta có thể chỉ còn ít nhất từ một đến ba ngày trước khi quân đội sụp đổ và Tân Sơn Nhất trở nên không sử dụng được. Tất nhiên, điều này có sự khác biệt với con số 757 của ông."
29.04.1975 -<< Kissinger to Martin>>:" Tổng thống đã họp với Hội đồng An ninh Quốc gia và đưa ra các quyết định sau:
 
A. Nếu sân bay mở cửa cho các phi cơ vận tải  hoạt động hôm nay, ông  phải tiếp tục di tản những người Việt Nam có nguy cơ cao bằng phi cơ vận tải. Ông cũng phải di tản vào cuối ngày cùng với  tất cả nhân viên Mỹ tại Tân Sơn Nhất cũng như tất cả nhân viên khác, trừ một số tối thiểu tại trụ sở sứ quán.
B. Đây sẽ là ngày cuối cùng của cuộc di tản bằng phi cơ vận tải  khỏi Tân Sơn Nhất.
C. Trường hợp  một khi phi trường không sử dụng được, ông phải ngay lập tức sử dụng trực thăng để di tản tất cả những người Mỹ còn kẹt lại tại khu vực DAO và khu vực tòa sứ quán.
29.04.1975 -<< Martin to Scowcroft >>:"Tướng Smith nói với tôi rằng ông ấy hy vọng sẽ khởi hành vào khoảng 18:15 giờ địa phương. Chúng tôi cho đặt một tấm bảng  dấu hiệu lớn và hy vọng sẽ  có đủ ánh sáng trong khuôn viên tòa  sứ quán để thuận tiện cho việc máy bay CH55 có thể hạ cánh vào ban đêm. Chúng tôi sẽ ở tại đây trước bình minh."
    " Tôi đã nhờ  Đại sứ quán Pháp  bảo vệ  tài sản của chúng ta. Hiện tại ông ta không chắc chắn rằng chính ông ta liệu  sẽ được an toàn hay không. Tôi đề nghị ông liên hệ Bộ yêu cầu Chính phủ Pháp chính thức đảm nhận việc này."
29.04.1975 -<< Martin to Scowcroft ->>:" Tư lệnh Hạm đội 7 đã nhắn tin cho tôi cách nay khoảng chừng một tiếng rưỡi,  ông ta  cho biết sẽ ngừng ứng trực từ  23:00 giờ và sẽ tái ứng trực vào lúc 8 giờ sáng mai. Tôi trả lời rằng tôi  không muốn ở đây thêm một đêm nào nữa."
29.04.1975 -<< Martin to Scowcroft & Gayler  (Tư lệnh TBD) >>: " Rất hoan nghênh đã có  19 phi vụ CH46. Bây giờ tạm yên  lặng, không có gì trong 20 phút qua.   Chúng tôi cần 30 phi vụ CH53 như yêu cầu trong tin nhắn trước của tôi. Có vẻ như tình hình này, tôi sẽ phải ở lại đây thêm một phần của ngày 30 tháng 4. Nhưng tôi chắc chắn không hề muốn nghỉ lễ  Lao động tại đây."
29.04.1975 -<< Graham Martin, left Saigon>> :" Đại sứ tại Việt Nam, Graham Martin, rời Sài Gòn trên chiếc trực thăng quân sự CH-46 lúc 2058Z, ngày 29 tháng 4 năm 1975. Những thành viên cuối cùng của Lực lượng An ninh Mặt đất  thuộc Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ rời khu phức hợp tòa đại sứ quán  2346Z. Trong Chiến dịch Frequent Wind Operation, từ  02:52  ngày 29 tháng 4, đến 00:54 ngày 30 tháng 4, quân đội Hoa Kỳ đã di tản 7.806 công dân Hoa Kỳ và công dân nước ngoài khỏi miền Nam Việt Nam."

Dao Van 03 
** Tranh cãi về cuộc di tản
Tiếp theo bài báo của tờ NYT nêu trên:" Năm 1976, ông (Martin) nói với một tiểu ban Đối ngoại của Hạ viện rằng những lời buộc tội là "sự xuyên tạc thô bạo về 10 ngày cuối cùng của ông ở Sài Gòn" cần phải đánh giá cẩn thận, nhất là về tình hình biến động vào thời điểm đó như thế nào. " Những giờ cuối cùng của Mỹ ở Việt Nam được trình bày  trong cuốn "Decent Interval" một cuốn sách của Frank Snepp xuất bản năm 1977, tác giả là  nhà phân tích cấp cao của Cục Tình báo Trung ương tại Việt Nam từ năm 1977 đến năm 1973. Ông Snepp cáo buộc rằng các quan chức sứ quán đã không lập kế hoạch đầy đủ về cuộc  di tản - Mr. Snepp charged that embassy officials had failed to plan adequately for the  evacuation,  và ông Martin đã cố gắng đàm phán để chấm dứt chiến tranh một cách hòa bình- Mr. Martin had attempted to negotiate a peaceful end to the war - trong khi phớt lờ các báo cáo tình báo rằng Bắc Việt Nam muốn chiến thắng toàn diện-while ignoring  intelligence reports that North Vietnam wanted total victory "
 
Về cuộc điều trần trước Tiểu Ban Đối Ngoại Hạ Viện của Đại Sứ Martin, theo bản văn lưu trên thư  viện CIA << Testimony of Ambassador Graham Martin >>: " "Hamilton hỏi Martin liệu ông có cảm thấy mình đã nhận được đánh giá tình báo đầy đủ trong những ngày cuối cùng hay không.  Martin trả lời rằng ông ta đã nhận được  báo cáo từ CIA về tình hình nhưng độ tin cậy của báo cáo đó đã bị nghi ngờ bởi trưởng cơ quan. Trên thực tế, người ta đã đặt câu hỏi nhiều đến mức trưởng cơ quan đã  không chuyển báo cáo cho Washington- In fact, it was questioned so much that the COS did not forward the report to Washington. Martin sau đó nói rằng điều này có thể được xác minh bởi Ủy ban vì nhân viên phụ trách phần hành cũng có mặt trong phòng này, và tên của anh ta là Frank Snepp".
 
Về cáo buộc  " hàng ngàn người Việt Nam làm việc cho Hoa Kỳ và hàng trăm tài liệu mật bị bỏ lại" nêu trên, theo bản  điều trần của " COMMITTEE ON INTERNATIONAL RELATIONS HOUSE OF REPRESENTATIVES :
- Ông HAMILTON. Thưa ngài Đại sứ, các kế hoạch có bao gồm người Việt Nam cũng như người Mỹ không? - Mr. HAMILTON :Mr. Ambassador - Did the plans cover Vietnamese as well as Americans ?
- Đại sứ MARTIN. Từ khởi  đầu cuộc di tản  không bao gồm  người Việt Nam vì chúng tôi không có thẩm quyền chuyên chở họ vào Hoa Kỳ, cũng như không  thương lượng  với bất kỳ nước láng giềng về việc  di tản họ. They did not initially cover the number of Vietnamese that were actually evacuated because we had no authority to move them into the United States nor had we negotiated any arrangements with neighboring countries to take them. " Trong cuộc điều trần này  Đại sứ Martin tường trình trước Ủy Ban Bang Giao Quốc Tế Hạ Viện rằng "  Người Việt Nam đã chiến đấu với lòng quả cảm đáng kinh ngạc tại Xuân Lộc. The Vietnamese fought with incredible bravery at Xuan Loc. Dưới sức ép về  hỏa lực của địch dữ dội, trong khi   một sư đoàn Việt Nam, lại có cấp số đạn dược chỉ bằng 1/10 cấp số đạn dược  của một một sư đoàn Mỹ  khi không tác chiến. When a Vietnamese division, under intense pressure, has one tenth of the ammunition to expend which an American division would have had for a similar unit on an inactive front." ( Dòng chữ phía trên: "các câu hỏi được đưa ra trong điện tín"  của TS Kissinger chưa được giải mật. Trường hợp này, cũng như báo cáo liên quan đến cuộc đối thoại   giữa TT Nguyễn Văn Thiệu  và ông Hoàng Đức Nhã vẫn chưa  được  giải mật <<Report of a Conversation Between South Vietnamese President Thieu and the Presidential Private and Press Secretary (Hoang Duc Nha)>>  Khi thuận tiện người viết sẽ gửi đến bạn đọc chi tiết cuộc điều trần này, và về việc TT Thiệu làm khó phía Mỹ cuối năm 1972).
Như trên cho thấy mọi việc từ các diễn biến về quân sự, chính trị, đến ngoại giao của nước sở tại, vị đại sứ phải trực tiếp báo cáo  với Tòa Bạch Ốc và Bộ Ngoại Giao. Cho nên lời cáo buộc rằng " ông Martin đã cố gắng đàm phán để chấm dứt chiến tranh một cách hòa bình", điều này đúng hay sai  xin nhường lại để bạn đọc nhận định.

Đào Văn

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
09/08/202513:21:00
Ngày 8 tháng 8, hạn chót “ngưng chiến hoặc bị chế tài” mà Donald Trump đặt ra cho Vladimir Putin trôi qua trong yên lặng. Đến chiều hôm qua, Bạch Ốc xoay hướng, loan báo hội nghị thượng đỉnh giữa hai người vào 15 tháng 8 tại Alaska – vắng mặt Zelensky. Cú xoay này không lạ với ông Trump: lời lẽ ban đầu lúc nào cũng sắc lạnh như lưỡi dao, nhưng cuối cùng lại yếu đi, để Nga có thêm lợi thế.
09/08/202506:45:00
Trương Hán Siêu là một trong các nhà Nho nổi tiếng chống phá Phật giáo kịch liệt nhất trong lịch sử Việt Nam. Tuy nhiên, ít người biết rằng nhiều năm cuối đời, từ khi còn trong quan trường, cụ Trương Hán Siêu đã trở thành một người sùng mộ Đạo Phật. Lập trường sùng mộ Phật giáo của cụ Trương chưa được ghi rõ ràng vào trang tiểu sử ở Wikipedia
04/08/202508:43:00
Trong cái nhìn này của Thiền Tông, họ không thấy bất kỳ thành trì giáo lý nào để bảo vệ, vì tất cả chỉ là hóa hiện của tâm, vì vô thường chảy xiết trong từng sát na, đây là nơi họ thấy không Phật, không tâm. Trong cái nhìn này, các Thiền sư nói làm sao cũng đúng: Tức tâm tức Phật. Cũng gọi là đúng. Mà nói: Không tâm, không Phật. Cũng gọi là đúng. Tất cả thế giới này chỉ là các hình ảnh hiện lên trong tâm họ, tất cả thành trì giáo lý chỉ là các niệm, các quan điểm được dựng lên. Hễ bám víu vào là rơi vào sanh tử luân hồi. Khi lìa tất cả, không giữ bất kỳ suy tưởng nào, thì đó là ánh sáng giải thoát.
31/07/202506:52:00
Bài này được dịch để bày tỏ lòng biết ơn tới tất cả những thế hệ tứ chúng trong hơn hai thiên niên kỷ qua đã học thuộc lời Đức Phật dạy, đã truyền lại từ đời này sang đời sau, đã lưu giữ kinh điển, và đã dịch kinh sang hàng chục ngôn ngữ cho nhân loại. Và cũng đặc biệt là chủ đề của nhóm ba bài viết trong này từ vị Tam Tạng Pháp Sư Bhikkhu Sujato. Thế giới đang bước vào cuộc cách mạng rất mới của trí tuệ nhân tạo, AI, một công cụ có nhiều ứng dụng hữu dụng cho gần như mọi mặt của đời sống. Chỉ trong vài giây đồng hồ, AI có thể cho chúng ta những hình ảnh đẹp hy hữu như nghệ thuật nhiếp ảnh, có thể soạn ra các ca khúc xuất sắc trong nhiều thể loại, có thể làm các video thần tốc cho các công ty quảng cáo, và nhiều ứng dụng tuyệt vời khác. Tuy nhiên, có một nơi AI bị cấm vào. Đó là Tàng kinh các về Phật học lớn nhất thế giới hiện nay. Để tìm hiểu lập trường này, dịch giả sẽ dịch ba bài viết sau
27/07/202509:06:00
Nên nghe nhạc, hay không nên nghe nhạc? Nên sáng tác nhạc để cúng dường Tam Bảo, hay không nên? Đôi khi chúng ta lại nhầm lẫn rằng chuyện âm nhạc cúng dường Tam Bảo là tiếp biến văn hóa của Phật Giáo khi vào Trung Hoa và Tây Tạng. Không phải như thế. Nếu đặt câu hỏi theo một cách khác, chúng ta sẽ tiếp cận vấn đề rộng hơn. Thí dụ: nên làm thơ cúng dường Chư Phật, hay không nên, bởi vì thơ cũng là một thể loại nghệ thuật có âm vận réo rắt tuy là ít chất nhạc hơn? Thơ trong một nghĩa nào đó, vẫn là một dạng gần với âm nhạc. Thực tế, Đức Phật là một nhà thơ vĩ đại, ứng khẩu thành thơ trong rất nhiều trường hợp, trong đó thi tập nổi tiếng nhất của ngài là Kinh Pháp Cú.
19/07/202520:38:00
Trump và Epstein là bạn bè thân thiết trong nhiều năm, đặc biệt là vào thập niên 1990. Họ đã cùng nhau tham dự các bữa tiệc, với những video cho thấy cả hai cười đùa và khiêu vũ cùng các cô gái trẻ. Trong một cuộc phỏng vấn với Tạp chí New York năm 2002, Trump đã nói về Epstein như sau: “Tôi đã biết Jeff 15 năm. Anh ấy rất vui tính. Thậm chí còn có người nói rằng anh ấy thích phụ nữ đẹp như tôi, và nhiều người trong số họ là những cô gái trẻ.”
18/07/202500:00:00
Chiếc khăn rằn Nam bộ và lá cờ đỏ sao vàng là hai vật thể ở Việt Nam tưởng chừng như không dính líu gì đến nước Mỹ và cộng đồng người Việt tại Mỹ. Vậy mà hôm nay nó lại được tôi đưa vào bài viết này một cách mà chính tác giả cũng không ngờ và chưa bao giờ nghĩ tới. Ban đầu tôi định quên nó đi vì nghĩ rằng không đáng để tôi quan tâm. Nhưng thực tế câu chuyện đã làm tôi ít nhiều khó chịu và suy nghĩ, khi viết ra tôi sẽ được nhẹ lòng. Dầu sao, đây cũng là một khía cạnh trong sinh hoạt rất phức tạp của cộng đồng người Việt ở Mỹ và là kinh nghiệm bản thân, tôi thấy cần và muốn chia sẻ với mọi người. Sự việc xảy ra vào tháng 5 năm 2025 khi tôi về Việt Nam thăm thân nhân, đi du lịch và chụp hình như thông lệ từ nhiều năm nay.
15/07/202509:22:00
Bạn có thể ngưng đọc một phút và tự nhủ rằng "Không biết" thì tất cả trong tâm bạn sẽ sạch trơn, sẽ không có xanh đỏ tím vàng, sẽ không còn buồn vui hờn giận, sẽ không còn dấu vết Nam Tông hay Bắc Tông, sẽ không còn dấu vết biện biệt thiện với ác, sẽ không còn ranh giới đúng với sai nữa, và Tâm Không đó chính là một bước để vào Gương Tâm trong trẻo, không do tạo tác, không hiển lộ từ ba cây lau nào hết. Nếu bạn thường trực sống với tâm không biết, bạn sẽ hiểu các Thiền ngữ để lại trong kinh sách Thiền Tông.
12/07/202515:12:00
Kinh Phật thường nói rằng chúng ta đang sống trong nhà lửa. Nghĩa là, hiểm họa liên tục, không có gì bình an. Và phải lo tìm đường giải thoát. Lời Phật dạy không đơn giản có ý nói rằng hãy rời nơi này để qua nơi khác. Không đơn giản như thế. Bởi vì chuyện dời đổi không gian và thời gian không cứu được chúng ta, khi còn danh sắc này, còn thân tâm này.
11/07/202509:36:00
“Thuật ngữ "gaslighting", mô tả một loại thao túng tâm lý. Nó làm cho những người bị nhắm đến trở nên mất phương hướng đến mức họ bắt đầu nghi ngờ bản thân, trở nên bối rối và đặt câu hỏi về nhận thức của chính mình ở thực tại. Các nhà tâm lý học cho biết khi hiện tượng “gaslighting” xảy đến, nạn nhân không chỉ bắt đầu phủ nhận sự thật mà còn bắt đầu chấp nhận thực tại sai lầm của kẻ đang thao túng họ.”
“Đây là quan điểm của người viết, không nhất thiết là quan điểm của Việt Báo.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.