Hôm nay,  

Quanh Chuyện Sử Dụng Tiếng Việt Chêm Tiếng Pháp & Anh

7/10/202119:05:00(View: 9353)


blank


blank


blank


Đã từ lâu có nhiều bài viết đề cập đến vấn đề sử dụng tiếng Việt chêm tiếng Pháp. Trong ngôn ngữ dân gian đã truyền tụng với nhau từ lâu nên trở thành thói quen khi sử dụng. Trong văn học có nhà văn Vũ Trọng Phụng (1912-1939) qua các phóng sự của ông về thực trạng xã hội thời đó nên thường dùng tiếng Việt theo âm tiếng Pháp, đôi khi có chú thích cho rõ ràng.

Trải qua tám thập niên dưới sự đô hộ của Pháp nên vấn đề sử dụng tiếng Pháp đã vay mượn với những chữ thông thường, hầu hết là danh từ, lâu ngày thành thói quen và được “Việt hóa” điển hình như:

“a-mi-đan (amygdale), áo-sơ-mi (chemise), áp-phe (affaire), ăng-ten (antenne), áp-phích (affiche), ắc-qui (accus), ban-công (balcon), ba-lê (ballet), bi-đông (bidon), bù-loong (boulon), búp-bê (poupée), bê-tông (béton), bia (bière), bơ (beurre), bu-gi (bougie), ca-ve (cavalière), cà-vạt (cravat), cà-phê (café), cà-rốt (carotte), cam-nhông (camion), cà-rem (crème), cốp-xe (coffre), cu-li (coolie), đi-văng (divan), ê-kíp (equipe), gác-dan (gardien), gu (goût), kính-lúp (loupe), khăn-xoa (mouchoir), lăng-xê (lancée), ny-lông (nylon), phanh (frein), phéc-mơ-tuya (fermeture), ru-băng (ruban), ra-đi-ô (radio), sâm-banh (champagne), sếp (chef), tắc-xi (taxi), túp (type), xà-lách (salade), xăng (essence), xi-măng (ciment), xích-lô (cyclo), xì-căng-đan (scandale), xiếc (cirque), xốt (sauce), va-li (valise)…

Theo lối viết trước kia đều có gạch nối với nhau như địa danh, họ tên… nhưng sau nầy thấy hơi “nặng nề” nên bỏ.

Từ nhỏ còn học tiểu học ở quê nhà, có bài thơ về tiếng Pháp và nghĩa tiếng Việt đứa nào cũng học thuộc lòng để khi nào cao hứng xổ ra tràng Pháp Việt. Trong internet phổ biến bài thơ Lục Bát Việt-Pháp rất thú vị:

“Tiếng Pháp, tiếng Việt giống nhau,

Cùng nhau tìm chữ ,tìm câu hàng ngày.

Mu-soa (mouchoir) là cái khăn tay,

Buya-rô (bureau) bàn giấy, để ngay văn phòng.

Savon là cục xà-bông.

Ban-công (balcon) là chỗ đứng trông trước nhà.

Xót-ti (sortir) có nghĩa: đi ra.

Ve (vert): màu xanh lá, màu là cu-lơ (couleur).

Beurre:thì có nghĩa là bơ

Ăn với ba-gét (baguette): bánh mì đũa que.

Chìa khóa còn gọi cờ-lê (cle”)

Đốc-tơ (docteur): bác sĩ, kẹo là bòn-bon (bonbon)

Thịt nguội còn gọi giăm-bông (jambon)

Quần dài, là păng-ta-lông (pantalon),đúng không?

Tóc tém: đờ-mi gạc-xông (demi garcon).

Phòng khách có ghế sa-lông (salon) để ngồi.

Súp-lơ (choux fleur): bông cải,bỏ nồi.

Cùi-dìa (cuillère): thìa, muỗng, xin mời ăn cơm.!

Quả táo còn gọi: trái bom (pomme)

Dễ thương, hay gọi mi-nhon (mignonne), hay dùng.

Coát-xăng (croissant) là bánh hai sừng.

Cà-rem (creme) ai thấy cũng mừng, cũng ham.

Đặt hàng còn gọi còm-măng (commande)

Sớp-phơ (chauffeur) tài xế, phải ngồi vô lăng (volant)

Gọi mẹ, thì gọi ma-măng (maman)

Thường trực là pẹc-ma-năng (permanent) nghe bà!

Lối đi qua, gọi cu-loa (couloir)

Bi-da (billard) chơi nhớ, phải chà cục lơ (bleu)

Người chạy xe đạp: cua-rơ (coureur)

Đồng hồ điện, gọi công-tơ (compteur) hã bồ?

Bảo vệ là gạc-đờ-co (garde de corps)

Áo khoác dài gọi măng-tô (manteau) đó mà.

Tạm biệt, nói ô-rờ-voa (au revoir)

Món gà nấu đậu,gọi là la-gu (ragout)

Chửi nhau nói: mẹc-xà-lù (merde salaud)

Pê-đan (pédale) bàn đạp, rất cần cho xe.

Màu da ta gọi màu be (beige)

Cà-vẹt (carte verte) là giấy xe nè, hở anh?

Thắng xe, thì gọi là phanh (frein)

Cà-vạt (cravate) nhớ thắt, để thành…đẹp trai.

Pít-xin (piscine) là cái hồ bơi.

Búp-bê (poupée) bé thích, bé ngồi, bé mơ…

Buộc –boa (pourboire) ám chỉ tiền bo (tiền tip) 

Tích-kê (ticket) là vé, ri-đô (rideau) là màn.

Táp-pi (tapis) là tấm thảm sàn.

Sinh nhật, nhớ mở nhảy đầm đãng-xê (danser)

Đầm dài là cái xoa rê (soirée)

Giuýp (jupe) là váy ngắn, nhìn mê không bồ?

Xe hơi còn gọi ô tô (auto)

Đờ mi (demi): một nửa, bô (beau) là đẹp trai.

Đúp (double) thì có nghĩa: gấp hai.

Bưu ảnh, là cạc-pốt-tan (carte postale) có hình.

Co (corp) là để chỉ thân mình.

Đề-pa (départ )mang nghĩa khởi hành đó nha.

Tôi thì mình xưng là moa (moi)

Còn bạn có nghĩa là toa (toi), là mày.

Tiếng Pháp Việt hóa, thật hay.

Nhưng không thể viết một ngày mà xong.

Chỉ mong đóng góp cộng đồng .

Soạn đi soạn lại,vẫn còn nhiều ghê..

Thủ quỹ quen gọi két-xê (caissier)

Giới thiệu nhà cửa, bởi mê tiền cò (com: commission)

Bệnh hoạn, a i lại chẳng lo?

Chạy mua thuốc ở tiệm gọi là phạc-ma-xi (pharmacie)

Màu xám còn gọi màu ghi (gris)

Cục gơm (gomme) để xóa,viết chì để ghi.

Con gái tôi, gọi ma-phi (ma fille)

Đét-xe (dessert) tráng miệng, ăn khi tiệc tàn.

Nhảy đầm, đẹp nhất điệu van (valse).

Nhẹ nhàng thanh thoát, chàng nàng say mê.

Mỗi sáng một phin (filtre) cà phê (café)

Bắt đầu làm việc, không hề quên đâu.

In-trô (intro): khúc nhạc dạo đầu.

Cam-nhông (camion): xe tải, lơ (bleu): màu xanh xanh.

Tiệc tùng khui rượu sâm-banh (champagne).

Sô-cô-la (chocolat) đắng, người sành thấy ngon.

La-de (la bière) uống giống bia lon.

Có người không thích, thì ngồi chê bai.

Bia (bière), bọt, chỉ nên lai rai.

Uống nhiều bia quá, hao tài, hao phăng (Franc)

Tiền thì nhớ bỏ nhà băng (banque)

Trai gái sắp cưới, gọi là phi-ăng-xê (fiancé)

Mùa hè nắng gắt thấy ghê,

Nhớ đeo găng (gants) để bị chê đen thùi.

Ăn cơm, ăn xúp (soupe), ăn nui (nouille).

Nhớ chan nước xốt (sauce), nhớ mùi rau thơm.

Điện tín là tê-lê-gam (télégramme)

Vợ tôi thì nói ma-phăm (ma femme) của mình.

Te-ríp (terrible): là chuyện thất kinh.

Phi-nan (final): kết thúc… mình xì-tốp (stop) đây.

Đặc biệt trong lãnh vực khoa học và chuyên môn (nhất là hóa học), dụng cụ sửa chữa… đều vay mượn tiếng Pháp rất nhiều. Chỉ sử dụng danh từ, ít khi sử dụng động từ. Có lẽ cách phát âm tiếng Pháp cũng na ná với cách phát âm tiếng Việt nên khi nghe không bị chói tai.

Sau năm 1954 ở miền Bắc và sau năm 1975 có nhiều tác phẩm dịch từ ngoại ngữ, tên địa danh và nhân vật phiên âm theo tiếng Việt, vừa khó nhớ và lạc giọng… khác với các bản dịch thời Việt Nam Cộng Hòa! Với các tác phẩm dịch từ tiếng Nga mà phiên âm theo kiểu “xách-cu-ra-đớp” thì “bỏ mẹ sa trường” quân mạc tiếu!

Trong bài viết của Nguyễn Đức Tuấn ở Montreal “Chữ Việt Gốc Pháp Còn Tồn Tại Đến Ngày Nay” cho biết: “Ngày xưa, vì Việt Nam không có chữ, khi tiếp xúc với người Pháp và những khí cụ mới lạ của người Pháp, người Việt phải mượn chữ của Pháp để gọi. Sự mượn chữ này thường là phiên âm nhưng vì tiếng Pháp là thứ tiếng đa âm, muốn biến thành đơn âm, người ta buộc lòng phải cắt chữ thành nhiều vần (syllable) để hoặc là lấy trọn hoặc chỉ lấy một phần. Trong quá trình phiên âm, đôi khi một âm bị đổi khác cho phù hợp với cách uốn giọng của người Việt, nhất là những người chưa từng học tiếng Pháp, chưa biết cách phát âm tiếng Pháp…

… Hiện tại, trong vốn từ của Việt Nam, ngoài 65% là từ gốc Hán còn khoảng hơn 400 từ là từ gốc Pháp, các từ này vẫn còn đang được sử dụng khắp nơi, nhiều khi miệng nói ra nhưng bạn không biết mình vừa nói một câu có chữ Pháp trong đó.”.

Thuở nhỏ, thời đi học, có nhiều câu lục bát với “Pháp Việt đề huề” (mượn chữ Collaboration Franco-Annamite, chính sách của chính quyền Pháp ở Đông Dương vào đầu thập niên 1910) cũng ví von để dợt le. Học thuộc lòng mấy câu proverbs (ngạn ngữ) để xổ tiếng Tây với nhau cho le lói nhưng khi vào lớp thầy cô bảo phân tích văn phạm thì “ấm ớ hội tề”!

Cach nay gần một thế kỷ, bài diễn thuyết về Truyện Kiều của cụ Phạm Quỳnh đọc nhân lễ kỷ niệm ngày giỗ Nguyễn Du vào ngày 8 tháng 12 năm 1924 do Hội Khai Trí Tiến Đức của ông tổ chức, ông nói: “Văn chương ta chỉ có một quyển sách mà sách ấy đủ làm cho ta vẻ vang với thiên hạ, tưởng cũng là một cái kỳ công có một trong cõi văn thế giới vậy”. Và câu nói: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” vẫn được nhắc mãi cho đến ngày nay. Điều đáng buồn là Truyện Kiều còn đó mà tiếng nước ta bị “biến chất”… Trong những năm qua có các bài biết của các nhà báo, nhà văn… đã đề cập về Tiếng Việt trong và ngoài nước sau năm 1975 như: 

Đụng Độ Ngôn Ngữ của Dân Việt, Hỏng Rồi Tiếng Nước Tôi! của Tô Văn Cấp, Tiếng Việt và Chữ Vẹm hay là Chữ Nghĩa Việt Cộng của Lê Duy San, Mặt Trận Ngôn Từ của Đỗ Văn Phúc, Nỗi Buồn Tiếng Việt Của Người Dân Trong Nước của Chu Đẩu (trong bài viết nầy tác giả dẫn chứng sự khác biệt và kèm theo tiếng Anh). Đào Văn Bình với 3 bài viết: Nỗi Buồn Tiếng Việt, Tiếng Việt Kinh Hoàng Ở Trong Nước, Bảng Đối Chiếu Tiếng Việt Trước & Sau năm 1975. Bảng đối chiếu từ ngữ của Việt Cộng và Việt Nam (theo alphabet) của Trần Văn Giang…

Bây giờ chữ viết cũng bị “tiết kiệm” tối đa, xử dụng (y dài, i (ngắn) loạn xà ngầu, có những chữ viết tắt dễ gây ngộ nhận như vc (vợ chồng, cs (ca sĩ)…

Ngày nay, tiếng pháp ít thông dụng ở trong nước. “Mỹ cút” nhưng tiếng “Mỹ” đã xâm nhập tràn ngập, nói mà không chêm tiếng “Mỹ” là thiếu hiểu biết, thiếu văn minh như gái giang hồ ngày xưa “no star where” (không sao đâu), “no table” (miễn bàn)… (Trong các tác phẩm của Nguyễn Thị Thụy Vũ có nêu ra loại tiếng Anh ba rọi nầy).

Sau khi “Mỹ cút” thì theo dòng thời gian “trăm hoa đua nở” với Hello, OK… tràn lan cả nước với “ấn tượng” đồng Dollar, Mỹ đi thì cất Mỹ kim.

Trong internet cũng phổ biến bài thơ Anh-Việt với những chữ thông dụng:

“Hello có nghĩa xin chào

Goodbye tạm biệt, thì thào Wishper

Lie nằm, Sleep ngủ, Dream mơ

Thấy cô gái đẹp See girl beautiful

 want tôi muốn, kiss hôn

Lip môi, Eyes mắt... sướng rồi... oh yeah!

Long dài, short ngắn, tall cao

Here đây, there đó, which nào, where đâu

Sentence có nghĩa là câu

Lesson bài học, rainbow cầu vồng

Husband là đức ông chồng

Daddy cha bố, please don"t xin đừng

Darling tiếng gọi em cưng

Merry vui thích, cái sừng là horn

Rách rồi xài đỡ chữ torn

To sing là hát, a song một bài

Nói sai sự thật to lie

Go đi, come đến, một vài là some

Đứng stand, look ngó, lie nằm

Five năm, four bốn, hold cầm, play chơi

One life là một cuộc đời

Happy sung sướng, laugh cười, cry kêu

Lover tạm dịch người yêu

Charming duyên dáng, mỹ miều graceful

Mặt trăng là chữ the moon

World là thế giới, sớm soon, lake hồ

Dao knife, spoon muỗng, cuốc hoe

Đêm night, dark tối, khổng lồ giant

Fund vui, die chết, near gần

Sorry xin lỗi, dull đần, wise khôn

Burry có nghĩa là chôn

Our souls tạm dịch linh hồn chúng ta

Xe hơi du lịch là car

Sir ngài, Lord đức, thưa bà Madam

Thousand là đúng...mười trăm

Ngày day, tuần week, year năm, hour giờ

Wait there đứng đó đợi chờ

Nightmare ác mộng, dream mơ, pray cầu

Trừ ra except, deep sâu

Daughter con gái, bridge cầu, pond ao

Enter tạm dịch đi vào

Thêm for tham dự lẽ nào lại sai

Shoulder cứ dịch là vai

Writer văn sĩ, cái đài radio

A bowl là một cái tô

Chữ tear nước mắt, tomb mồ, miss cô

Máy khâu dùng tạm chữ sew

Kẻ thù dịch đại là foe chẳng lầm

Shelter tạm dịch là hầm

Chữ shout là hét, nói thầm whisper

What time là hỏi mấy giờ

Clear trong, clean sạch, mờ mờ là dim

Gặp ông ta dịch see him

Swim bơi, wade lội, drown chìm chết trôi

Mountain là núi, hill đồi

Valley thung lũng, cây sồi oak tree

Tiền xin đóng học: school fee

Yêu tôi dùng chữ love me chẳng lầm

To steal tạm dịch cầm nhầm

Tẩy chay boycott, gia cầm poultry

Cattle gia súc, ong bee

Something to eat chút gì để ăn

Lip môi, tongue lưỡi, teeth răng

Exam thi cử, cái bằng licence...

Lovely có nghĩa dễ thương

Pretty xinh đẹp thường thường so so

Lotto là chơi lô tô

Nấu ăn là cook, wash clothes giặt đồ

Push thì có nghĩa đẩy, xô

Marriage đám cưới, single độc thân

Foot thì có nghĩa bàn chân

Far là xa cách còn gần là near

Spoon có nghĩa cái thìa

Toán trừ subtract, toán chia divide

Dream thì có nghĩa giấc mơ

Month thì là tháng, thời giờ là time”

*


Với tuổi già ở Mỹ với thế hệ thứ ba, ông bà mong muốn cháu nội, cháu ngoại nói được, viết được tiếng Việt là là tiếng mẹ đẻ là niềm vui trong gia đình. Vì vậy nơi nào có nơi dạy tiếng Việt cho con em, phụ huynh như tìm được cái phao để tuổi thơ tìm về cội nguồn.

Đối với ông bà, khi các cháu nói “thưa ông, thưa bà, chào ông, chào bà…” nghe rất thân thương và mát lòng. Ông bà, cha mẹ lúc nào cũng dạy con cháu phải có chữ “dạ”, “dạ có, dạ không…” rất lễ phép, thay vì  trả lời “yes, no” cụt lủn. Con cái ở gần cha mẹ là niềm hạnh phúc vì gởi trẻ thơ cho ông bà, và hầu như đều tập bập bẹ tiếng Việt. Khi mang về nhà lại nói và giải thích tiếng Anh để khi trẻ thơ vào preschool (kindergarten) khỏi bị bỡ ngỡ.

Khi trẻ thơ bước vào bậc tiểu học (elementary school) từ lớp một đến lớp bốn, nếu có anh chị em thì chúng chỉ giao tiếp với nhau bằng tiếng Anh. Ông bà giao tiếng với cháu cũng chêm tiếng Anh và giải thích để hiểu nghĩa. Hầu như ông bà nào cũng hiền hòa, nhẫn nại với cháu, ngay cả khi kèm homework mà khi làm cha mẹ thì hình như thiếu đức tính nầy với con cái… Vì vậy, đôi khi cũng có sự thông cảm khi ông bà đưa các cháu đi chơi, vào shopping, đôi lúc phải chêm dăm ba tiếng Anh cho tiện. Nếu ông bà mà nói với nhau nào là cái roll (cuộn), jar (lọ), bottle (chai), bowl (chén, bát), tube (ống), cái tie (cà vạt), cái scarf (khăn quàng)… thì “nghèo” tiếng Việt?

Học đường ở Mỹ là môi trường tốt và sự giáo dục trong gia đình là vấn đề hệ trọng. Người xưa đã khuyên “Dạy con từ thuở còn thơ” mà trẻ thơ tiếp nhận được sự dạy dỗ nầy từ thuở thơ ấu đến khi trưởng thành là niềm hạnh phúc.

Có lẽ cách gọi trong đại gia đình thông thường dạy cho trẻ thơ với ông bà (grandparents) như grandfather (thường gọi granddad hoặc grandpa), grandmother (thường gọi granny hoặc grandma) nhưng khi nghe Ông Nội, Bà Nội, ông Ngoại, Bà Ngoại… cảm thấy thật dễ mến, gần gũi vô cùng. Thử hình dung hình ảnh đứa trẻ khi gặp cúi đầu “Chào Ông Nội” với hình ảnh giơ tay “Hi, Grandpa”, tuy lễ phép nhưng cái còn, cái mất trong tâm thức tuổi hạc.

Với cha mẹ (parents) thì thường gọi cha là dad, daddy thay vì father và mẹ là mom thay vì mother vì trẻ em khi học ở trường, phụ huynh thường liên lạc với thầy cô và con cái nên thông dụng. 

Và, từ gia đình cũng ảnh hưởng phần nào ngoài xã hội. Trong bài viết của cô Ngọc Lan về hiện tượng tiếng Anh-Việt trong gia đình dẫn chứng câu “Ai đông ke”, “Tui đông ke” nghe mà xấu hỗ. Thật ra mấy chữ nầy cho dân ba búa, thất lọc lúc tranh cãi với nhau. 

Cô Ngọc Lan còn trẻ nhưng dám viết trên mặt báo như vậy cũng là điểm son

Với tôi, trong vấn đề giao tiếp, việc xử dụng ngôn ngữ tiếng Việt lẫn tiếng Anh phải tùy lúc, tùy nơi, tùy trường hợp, tùy đối tượng… Nếu biết nhận chân và ý thức thì tốt.

Thành ngữ ta có câu: “Xấu hay làm tốt, dốt hay nói chữ”. Ông bà ta cũng dạy dỗ qua câu “Học ăn, học nói, học gói, học mở” trở thành câu tục ngữ nói về những điều cơ bản trong cuộc sống mà con người ta phải học để có được cách ăn ở, giao tiếp, cách đối nhân xử thế sao cho lịch sự, tế nhị, văn minh.

Bài viết cũng khá dài… hẹn dịp khác.

Little Saigon, July 10, 2021

Vương Trùng Dương

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
Thế giới vừa điên đảo vì Trump 2.0 lại phải lo đối phó với Trung Quốc 2.0. Trung Quốc 1.0 là công xưởng quốc tế dựa vào giá nhân công rẻ và giá trị gia tăng thấp để sản xuất các hàng hóa tiêu dùng trong dạng Bộ Ba Cũ: (1) quần áo, đồ chơi trẻ em…; (2) vật dụng trong nhà như bàn ghế, tivi, tủ lạnh…(3) đồ điện tử gồm điện thoại cầm tay, máy điện toán,…) Trung Quốc 1.0 kéo dài 25 năm bắt đầu từ lúc Đổi Mới thập niên 1990 cho đến giữa thập niên 2010...
Giữa lúc các cơ quan báo chí, các tập đoàn truyền thông lớn khác chọn “sự trung lập” và cố gắng “nương tay” với các chính trị gia và chính quyền, thì Stephen Colbert chọn sự trung thực, kiên định, xem tuyên ngôn “trung lập” theo lý thuyết báo chí là vở kịch hài không hợp thời cuộc. Ông châm biếm, chỉ trích không thương tiếc những quyết định vi hiến, những phát ngôn dối trá của chủ nhân Tòa Bạch Ốc.
Những người đấu tranh cho quyền hợp pháp của di dân có trong Tu chính án thứ Tư và thứ Năm của Hiến Pháp, vui mừng gọi phán quyết của chánh án liên bang hôm thứ Sáu 11/7 là “chiến thắng.” Chánh án Maame E. Frimpong ra phán quyết các cảnh sát di trú ở Nam California phải tạm dừng việc bắt giữ, tra hỏi di dân chỉ dựa vào chủng tộc hoặc ngôn ngữ Tây Ban Nha. Nhưng Jaime Alanís Garcia, 57 tuổi, người làm việc ở nông trại Glass House Farms, quận Ventura 10 năm, đã không có cơ hội vui với chiến thắng tạm thời này. Với ông, và gia đình ông, tất cả đã quá muộn. ICE đã thực hiện cuộc đột kích quy mô lớn ở nông trại Glass House Farms gần Camarillo, quận Ventura hôm thứ Năm 10/7. Đoạn video ghi lại cảnh những chiếc xe bọc thép có chữ Police rượt đuổi theo nhóm nông dân tháo chạy hoảng loạn. Càng chạy, xe càng lao tới, bất kể có người đang cố bám vào đầu xe để chặn bánh xe lăn. Súng hơi, đạn cay mù mịt trên cánh đồng từng rất yên ả với những cây cà chua, dưa leo, và cây cannabis có giấy phép.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.