Hôm nay,  

Kế Thứ Ba Của Tôn Tử

25/05/202017:56:00(Xem: 4700)

 


Binh thư Tôn Tử gồn có 36 kế, trong đó kế thứ ba là “mượn dao giết người” (tá đao sát nhân).  Trong chính trị cận đại Việt Nam, người ứng dụng nhuần nhuyễn kế nầy có lẽ là Hồ Chí Minh, người được đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) vinh danh có 169 bí danh, bút danh, biệt danh trong sách Những tên gọi, bí danh, bút danh của chủ tịch Hồ Chí Minh, do Bảo tàng Hồ Chí Minh biên soạn, Nxb. Chính Trị Quốc Gia ấn hành năm 2001 ở Hà Nội.  


Một người có 169 tên khác nhau và còn có thể có nhiều hơn nữa, ngay cả khi cầm quyền cũng dùng bí danh, bút danh để hành động, chứng tỏ người đó rất điêu luyện trong việc ứng dụng kế thứ ba của Tôn Tử trong chính trị.  Dưới đây là vài kinh nghiệm sử sách ghi lại được.


1.-  VỤ ÁN PHAN BỘI CHÂU 


Ngày 1-7-1925, Phan Bội Châu từ Hàng Châu đi Thượng Hải, thì bị Pháp bắt ở nhà ga Thượng Hải. Về sau, người ta mới được biết chính Lý Thụy đã bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu. (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Paris, 1962, tr. 38). Lý Thụy là Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh (sau nầy), mượn tay mật thám Pháp để loại Phan Bội Châu theo kế hoạch tiêu diệt tiềm lực, còn gọi là triệt người . 


Ở đây, xin ghi thêm: Con gái của Phan Bội Châu là Phan Thị Như Cương.  Bà Cương, có chồng là Vương Thúc Oánh.  Ông Oánh hoạt động trong nhóm Lý Thụy.  Biết tin Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu, bà Cương xin cha ly dị chồng, nhưng Phan Bội Châu không đồng ý.  Vâng lời cha, bà Cương không ly dị ông Oánh, nhưng từ đó âm thầm sống biệt lập, tức ly thân với ông Oánh suốt đời.  (Viết theo lời kể của cháu nội Phan Bội Châu, gọi bà Cương bằng cô ruột, gặp tại Toronto, không muốn đưa tên.) 


2.-  VỤ ÁN PHẠM QUỲNH VÀ NGÔ ĐÌNH KHÔI


Tại Huế, hai ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi lui về hưu trí từ khi Trần Trọng Kim lập chính phủ ngày 17-4-1945.  Ngày 23-8-1945, Ủy ban cộng sản (CS) địa phương Huế sai Phan Hàm và Võ Quang Hồ bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi, nhưng không giết.  


Vua Bảo Đại làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn (Huế) ngày 30-8-1945, có mặt đại diện CS trung ương là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.  Phái đoàn trung ương cùng cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945 ra Hà Nội.  Sau đó, CS Huế giết hai ông Quỳnh và Khôi ngày 6-9-1945.  


Cho đến nay, các nhà nghiên cứu về Phạm Quỳnh vẫn chưa tìm ra được ai đã ra lệnh giết Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi.  Chính hai người do Ủy ban CS cử đi bắt Phạm Quỳnh là Phan Hàm và Võ Quang Hồ, sau 1975 lên đến cấp tướng trong quân đội CS, cũng không biết hoặc biết mà không dám nói, vì sao và ai đã ra lệnh nầy?  Câu hỏi đặt ra là tại sao CS Huế không giết liền hai ông Quỳnh và Khôi, mà chỉ giết sau khi phái đoàn trung ương đến Huế?  Như thế là phải có chỉ thị từ trung ương, thì CS Huế mới giết hai ông.  Ai ở trung ương có quyền ra lệnh nầy nếu không phải là người quyền lực cao nhứt nước?  


Điều đáng nói thêm là sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh.  Sau đây là lời kể của bà Thức:”… Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi ra đi!… Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về… Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội vã có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu gia đình gởi người viết.).    Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội tháng 8-1945.  Bảo Đại thoái vị và rời Huế ngày 4-9-1945. Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945.  Nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Hà Nội, và đã cướp quyền trước khi Phạm Quỳnh bị giết.  Xin chú ý các điểm sau:  1) Tại sao Hồ Chí Minh nói dối về thời điểm việc trở về với hai người con gái của Phạm Quỳnh? 2)  Phạm Quỳnh là người có khả năng, có uy tín, và có chủ trương chính trị khác HCM và đảng CSVN. 3) Phạm Quỳnh biết rõ quá khứ của HCM.  


Nguyên vào năm 1922, chính phủ Pháp mời Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922.  Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp.  Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”.  Trên lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Tờ lịch ngày Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch ngày Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.] (Tài liệu do bà Phạm Thị Hoàn, con gái Phạm Quỳnh cung cấp cho người viết.)  


Chắc chắn Phạm Quỳnh biết hai việc mà Hồ Chí Minh đã làm ở Paris. 1) Xin vào học Trường Thuộc Địa Paris năm 1911, nhưng bị từ chối. 2) Gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris năm 1922. (Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la francmaçonnerie coloniale”, tạp chí Revue Française d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105.)  Tam Điểm là một hội đối lập và là kẻ thù của đảng CS.  Khi mới cướp chính quyền năm 1945, để lôi cuốn quần chúng, Hồ Chí Minh giấu kỹ hai việc trên.  Phải chăng vì vậy, qua phái đoàn trung ương đến Huế, Hồ Chí Minh ra lệnh cho CS địa phương Huế bịt miệng Phạm Quỳnh vĩnh viễn?    


3.-  NHỮNG VỤ ÁN THỜI HỘI NGHỊ FONTAINEBLEAU


Ngày 31-5-1946, Phạm Văn Đồng cầm đầu phái đoàn nhà nước CSVN sang Pháp dự hôi nghị Fontainebleau.  Hồ Chí Minh đi theo phái đoàn, với tư cách cá nhân, không cho biết lý do.   Tương truyền rằng trước khi ra đi, Hồ Chí Minh nói với quyền chủ tịch nước là Huỳnh Thúc Kháng như sau: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (Lấy không biến đổi [im lặng] để ứng phó với vạn điều biến đổi.)  Câu nầy rất văn hoa, nhưng thật ra Hồ Chí Minh dặn Huỳnh Thúc Kháng rằng “ông hãy im lặng, đừng hành động gì trước những biến chuyển của tình hình”.  Thật vậy, sau khi phái đoàn ra đi, sóng gió nổi lên khắp Việt Nam.  


Trước hết là vụ Ôn Như Hầu ở Hà Nội ngày 13-7-1946.  Vào ngày nầy, quân CS bất ngờ lục soát trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), số 9 phố Ôn Như hầu, Hà Nội, bắt những đảng viên QDĐ có mặt, tịch thu giấy tờ mà theo CS là có “kế hoạch đảo chánh” chính phủ Hồ Chí Minh.  Cộng sản còn cho rằng đã tìm thấy trong khu vực nhà nầy một số xác người, rồi lập biên bản kết tội QDĐ.  Hôm sau (14-7-1946), bộ trưởng Nội vụ, kiêm quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng, dựa vào biên bản nầy, ký quyết định trừng trị những người bị ghi là phạm tội trong biên bản. 


Sau biến cố Ôn Như Hầu, Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho Vệ quốc đoàn CS tấn công 7 chiến khu của QDĐ từ Hải Dương vào đến Bình Định từ tháng 7 đến cuối năm 1946, đánh dẹp các chiến khu QDĐ, bắt giam hàng ngàn đảng viên đảng nầy. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Sài Gòn: 1970, tt. 325-327.)


Vào cuối tháng 7-1946, một chuyến xe lửa chuyên chở võ khí ngang qua cầu Chiêm Sơn, xã Phú Tân, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, phải dừng lại vì có báo động.  Cộng sản cho rằng QDĐ phá hoại, bắt giam, tra tấn dã man các lãnh tụ, đảng viên QDĐ từ Quảng Nam vào Bình Định.


Ba vụ tấn công trên đây của CS không phải tình cờ xảy ra khi Hồ Chí Minh qua Pháp theo phái đoàn Phạm Văn Đồng.  Hồ Chí Minh không có nhiệm vụ gì mà vẫn đi Pháp, chẳng qua là Hồ Chí Minh sắp đặt trước công việc ở nhà, rồi tránh mặt để Võ Nguyên Giáp thi hành, mở cuộc khủng bố đối lập, và còn yêu cầu Huỳnh Thúc Kháng hãy “dĩ bất biến ứng vạn biến”.  Khi Hồ Chí Minh trở về Hà Nội ngày 21-10-1946, thì Võ Nguyên Giáp đã thanh toán xong các thành phần đối lâp.  Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ ngày 3-11-1946, không còn liên hiệp mà chính phủ mới gồm đại đa số là người của đảng CSVN.

4.-  VỤ ÁN BÀ NGUYỄN THỊ NĂM


Ngày 20-4-1953, sắc lệnh Cải cách ruộng đất đợt thứ 3 được ban hành. Nơi thực hiện đầu tiên là Thái Nguyên.  Người bị đấu tố đầu tiên là bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu buôn Cát Hanh Long nên người ta quen gọi là bà Cát Hanh Long. Bà Nguyễn Thị Năm bị đem ra đấu tố ba lần và bị giết ngày 9-7-1953. 

 

Theo hồi ký của Hoàng Tùng, từng là bí thư Trung ương đảng CSVN, khi nghe tin cố vấn Trung Quốc yêu cầu xử tử bà Nguyễn Thị Năm, có người báo tin cho Hồ Chí Minh biết. Hồ Chí Minh nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa.” (Internet:  Hồi ký Hoàng Tùng, mục “Những kỷ niệm về Bác Hồ”.) 


Theo tài liệu của một tác giả hiện ở trong nước, lúc đó là một ký giả báo Nhân Dân Hà Nội, có nhiệm vụ viết bài tường thuật vụ xử án bà Nguyễn Thị Năm, khi xảy ra vụ án thì: 1) Hồ Chí Minh bịt râu, hóa trang để đến dự đấu tố. 2) Trường Chinh đeo kính đen để khỏi bị nhận diện khi tham gia cuộc đấu tố. (Trần Đĩnh, Đèn cù, Hoa Kỳ: Người Việt Books, 2014, tr. 86.)   


Từ 1945 đến 1951, bà Năm đã từng dùng nhà mình làm nơi hội họp, che giấu, nuôi dưỡng nhiều cán bộ CS cao cấp. Bà còn đóng góp nhiều tiền bạc cho CS, nên việc đấu tố và xử tử bà Năm gây nhiều dư luận bất bình.  Vì vậy, trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953, xuất hiện bài viết nhan đề là “Địa chủ ác ghê” của tác giả C.B., lên án nặng nề địa chủ Nguyễn Thị Năm cùng hai con là những địa chủ gian ác, bóc lột.  Bài báo còn tố cáo gia đình bà Năm vừa trực tiếp, vừa gián tiếp giết chết 260 người.  


Độc giả không biết tác giả C.B. là ai? Chỉ những người làm việc trong tòa báo Nhân Dân giải thích rằng hai chữ C.B. là “của bác”, chứ còn ai vô đó nữa.  Xin mời vào bộ Hồ Chí Minh toàn tập từ tập 6 (1951-1952), sẽ thấy rất nhiều bài viết Hồ Chí Minh ký tên C.B. đăng trên báo Nhân Dân, và đăng lại trong sách nầy; ví dụ các trang 186, 187, 188-190, 202-204, 209-212, 215-220... (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, 1951-1952, in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000.)  Như vậy là ngoài mặt thì Hồ Chí Minh tỏ ra thương tiếc nạn nhân, nhưng chính Hồ Chí Minh là người quyết định cái chết của bà Năm.  


5.-  CÔNG HÀM 14-9-1958


Ngày 4-9-1958, Trung Cộng đưa ra “Tuyên cáo” về lãnh hải của Trung Cộng và tự xác định chủ quyền của Trung Cộng đối với một số quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Thực tế hai quần đảo nầy thuộc chủ quyền Việt Nam từ lâu đời.  Thế mà Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận tuyên cáo của Trung Cộng, nghĩa là công nhận hai quần đảo Việt Nam là của Trung Cộng.


Xin lưu ý là dưới chế độ độc tài CS, chính phủ chỉ là cánh tay nối dài của đảng CS.  Phạm Văn Đồng dù làm thủ tướng, chỉ là thư ký hành chánh cho đảng CS, nên phải có sự đồng ý của chủ tịch đảng CS kiêm chủ tịch nước là Hồ Chí Minh thì Phạm Văn Đồng mới dám kỳ công hàm nầy, vừa phạm tội bán nước, vừa phản dân tộc, vừa lưu xú muôn đời trong lịch sử. 


6.-  VỤ TÀN SÁT TẾT MẬU THÂN


Hầu như người Việt nào cũng đều biết biến cố Tết Mậu Thân (1968), gây thiệt hại nhiều thường dân vô tội ở các thành phố miền Nam Việt Nam, nhứt là Huế.  Nhiều tài liệu của CS cho rằng Hồ Chí Minh đi dưỡng bệnh ở Bắc Kinh trong dịp Tết Mậu Thân.  Tuy nhiên, đây chỉ là động tác giả.  Hồ Chí Minh mượn cớ bệnh tật, qua Bắc Kinh dưỡng bệnh, không có mặt ở Hà Nội, nhằm đánh lừa dư luận thế giới để khỏi chú ý đền việc CS sửa soạn tấn công Tết Mậu Thân, và chứng tỏ Hồ Chí Minh không tham gia vụ giết người tập thể tàn bạo nhứt trong lịch sử nước Việt.  


Tuy nhiên, sự thật như sau:  Ngày 5-09-1967, Hồ Chí Minh đi Bắc Kinh, nói là để dưỡng bênh. Sau đó, Hồ Chí Minh về Hà Nội ngày 23-12-1967, chủ trì cuộc họp Bộ chính trị ngày 28-12-1967, quyết định lần cuối về lịch tổng tấn công Nam Việt Nam.  Sáng Chủ nhật 31-12-1967, nhân viên đài phát thanh Hà Nội đến phủ chủ tịch thâu âm bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh.  Bài nầy được báo Nhân Dân Hà Nội đăng ngày 01-01-1968.  Trong khi đó, Hồ Chí Minh trở qua Bắc Kinh chiều ngày 01-01-1958.  


Nhân dịp Tết âm lich Mậu Thân, báo Nhân Dân đăng lại bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh, và Đài Hà Nội phát thanh lại lần nữa vào phút giao thừa năm Mậu Thân, làm hiệu lệnh cho CS ở Nam Việt Nam nổi lên tổng tấn công. Xin theo dõi thái độ Hồ Chí Minh khi cuộc tổng tấn công bắt đầu qua lời ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ Chí Minh, là người đã đi theo Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh đầu năm 1968.  Vũ Kỳ kể lại như sau: “Đúng là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 Bác chỉ đạo và theo dõi rất sát. Bác rất vui với từng trận đánh thắng của quân và dân miền Nam từ Quảng Trị đến Nam Bộ. Mỗi trận thắng làm cho Bác khỏe thêm.” (http://yenbai.gov.vn/hoc-tap-lam-theo-loi-bac/noidung/tintuc/ Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?ItemID=5&l=CuocdoihoatdongcuaC)  [Chữ in đậm do người viết bài nầy.]


Hành động của Hồ Chí Minh rất kín đáo, làm cho nhiều người lầm tưởng rằng Hồ Chí Minh ở xa, không trách nhiệm về biến cố Mậu Thân, kể cả Bùi Tín, một cựu đại tá CS nói rằng Hồ Chí Minh không tán thành tổng tấn công, nên bị đẩy qua Bắc Kinh. (Bùi Tín trả lời BBC 19-02-2018.)  Bị đẩy hay gài bẫy? 


Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân thất bại nặng nề. (Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, tr. 35 và tr. 57.)  Mỗi trận thắng làm cho Hồ Chí Minh khỏe thêm thì cuộc thảm bại càng làm cho Hồ Chí Minh buồn rầu, căn bệnh gia tăng và chết ngày 2-9-1969.


KẾT LUẬN


Trong sách Les deux Viet-Nam, tác giả Bernard Fall, một ký gả và sử gia, viết nhiều sách về chiến tranh Việt Nam từ 1945 cho đến khi ông bị trúng mìn tử nạn năm 1967 trên đoạn đường giữa Huế và Quảng Trị, đưa ra nhận xét về Hồ Chí Minh như sau: “Người ta biết rằng ông Hồ là một kịch sĩ có biệt tài đánh lừa kẻ đối thoại.”  (Paris: Nxb. Payot, 1967, tr. 102.)  Đó là một người ngoại quốc.  


Còn một nhà văn đã từng ở gần Hồ Chí Minh, quay phim cho Hồ Chí Minh, là ông Vũ Thư Hiên, cũng nhận xét tương tự: “Trong hành xử ông [HCM] là một diễn viên kỳ tài.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, California: Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr.459.) 


Hồ Chí Minh ứng dụng tài đóng kịch vào chính trị, thi hành kế “tá đao sát nhân” hết sức tài tình.  Tuy nhiên, không phải tình cờ mà  báo Polska Times, tức Thời báo Ba Lan, số ngày 5-3-2013 đưa ra một bảng sắp hạng 13 nhà độc tài khát máu nhứt thế kỷ 20, trong đó Hồ Chí Minh đứng thứ 11, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,7 triệu người Việt. (Điện báo Đàn Chim Việt 20-3-2013 dịch nguyên văn bảng sắp hạng nầy.).  Đúng là “Bề ngoài thơn thớt nói cười,/ Mà trong….” (Truyện Kiều câu 1815-1816.).


Các học giả, các giáo sư tiến sĩ trong và ngoài nước, khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh, xin đừng quên những thành tích “tá đao sát nhân” trên đây của Hồ Chí Minh, cũng như bảng sắp hạng của báo Polska Times, thì mới trình bày thật đầy đủ “sự nghiệp” của Hồ Chí Minh.


TRẦN GIA PHỤNG

(Dallas, Texas)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chủ quyền tại Biển Đông là một vấn đề tranh chấp lâu đời và phức tạp nhất giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây sẽ còn là một thách thức trọng yếu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam trong nhiều thập niên tới. Hiện nay, dù tình hình Biển Đông vẫn âm ỉ căng thẳng nhưng chưa bùng phát thành xung đột nghiêm trọng, song tình trạng cạnh tranh chiến lược giữa Hoa Kỳ và Trung Quốc trong khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương đang ngày càng gia tăng...
Ngay chính cái tên “Tôi, Không Là Của Ai” đã là một tiếng kêu vừa thẳng thắn, vừa đau đớn. Tôi không là của ai trong cuộc đời này. Tôi không là con của cha tôi. Nhà văn, ký giả Amy Wallace từng lên tiếng, Virginia cũng từng bị chính cha mình ức hiếp khi cô 7 tuổi. Cô khước từ cái quyền sở hữu của những kẻ đã lạm dụng mình. Cô bị khước từ quyền được sống và được làm người, dù đó là những ngày hạnh phúc muộn màng của hơn 20 năm sau ngày cô thoát khỏi Jeffrey Epstein và Ghislaine Maxwell. Khi Virginia viết cuốn tự truyện này là lúc cô đã được hưởng 22 năm tự do. Tự do khỏi Epstein, Maxwell, đường dây mua bán tình dục trẻ em mà cô là một trong những nô lệ tình dục của Epstein. Hai mươi hai năm đó, cô tự thú, “không dễ dàng chút nào.” Không bao giờ có vết thương nào không để lại vết sẹo. Không bao giờ có sự hồi phục nào không để lại trầm tích.
Trump tắt CNN lúc ba giờ sáng. Không phải vì tức giận, mà vì ông vừa nảy ra ý tưởng điên rồ nhất đời mình. “Alexa, triệu tập Washington.” Câu lệnh vang lên trong bóng tối Phòng Bầu Dục như tiếng thần chú của một pháp sư già gọi linh hồn của quá khứ về để chứng minh rằng mình vẫn còn đúng. Thanksgiving năm nay, ông sẽ không ăn gà tây thật. Ông sẽ ăn ký ức. Phòng Bầu Dục rực ánh xanh lam – thứ ánh sáng lạnh của công nghệ và tự mãn. Trên bàn, con gà tây hologram vàng óng, chín hoàn hảo, không mùi, không khói, không có thịt thật. Một con gà tây ảo cho thời đại ai cũng sợ máu thật. Mọi thứ được lập trình để hoàn hảo: bàn tiệc dài, ly rượu đầy, bốn vị lập quốc hiện ra – George Washington, Benjamin Franklin, Thomas Jefferson, James Madison – được tái tạo bằng toàn bộ diễn văn, thư từ, và những câu họ chưa bao giờ nói. Bốn AI hoàn hảo.
Hội nghị khí hậu Liên Hiệp Quốc lần thứ ba mươi COP30 ở Belém, diễn ra trong bầu khí quyển nặng trĩu: trái đất nóng dần, còn các cường quốc vẫn cãi nhau về “mục tiêu” và “cam kết”. Biểu mức phát thải, phần trăm, hạn kỳ — tất cả lặp lại như những mùa họp cũ. Nhưng đằng sau lớp từ ngữ ấy, trật tự năng lượng của thế giới đã chuyển hướng. Cái trục quyền lực của thời đại đã dời khỏi phương Tây. Từ Tô Châu đến Quảng Đông, những nhà máy nối dài đã âm thầm định giá tương lai của mặt trời và gió. Trung Quốc không nói nhiều. Họ làm. Đến cuối năm 2024, Bắc Kinh vượt sớm mục tiêu 2030, đạt hơn một ngàn bốn trăm gigawatt gió và mặt trời — gấp bốn lần toàn Liên hiệp Âu châu. Tám phần mười chuỗi cung ứng quang điện nằm trong lãnh thổ của họ. Pin và xa điện xuất khẩu hàng chục tỉ Mỹ kim, kéo giá năng lượng sạch xuống một mức không còn cần trợ cấp.
Việc đình trệ gọi thầu dầu hỏa hai năm từ 1971 phải chờ qua 1973 rút cục đã giết chết chương trình tìm dầu của Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) và theo đó đã đốt cháy một cơ may lớn lao có nhiều triển vọng cứu vãn, duy trì và phát triển miền Nam. VNCH đã tìm được dầu hỏa ở Mỏ Bạch Hổ trong tháng Hai năm 1975. Thật nhiều dầu mà lại thật quá trễ.
“Tôi từ chức để có thể lên tiếng, ủng hộ các vụ kiện tụng và hợp tác với các cá nhân và tổ chức khác tận tâm bảo vệ pháp quyền và nền dân chủ Mỹ. Tôi cũng dự định sẽ bảo vệ những thẩm phán không thể công khai lên tiếng bảo vệ chính mình. Tôi không thể chắc chắn rằng mình sẽ tạo ra sự khác biệt. Tuy nhiên, tôi nhớ lại những gì Thượng nghị sĩ Robert F. Kennedy đã nói vào năm 1966 về việc chấm dứt chế độ phân biệt chủng tộc ở Nam Phi: “Mỗi khi một người đứng lên vì một lý tưởng, hoặc hành động để cải thiện cuộc sống của người khác, hoặc chống lại sự bất công, người đó sẽ tạo ra một đợt sóng hy vọng nhỏ bé.” Khi những đợt sóng nhỏ bé này hội tụ đủ, lúc đó có thể trở thành một cơn sóng thần.
Khi lịch sử bị xem nhẹ, nó không ngủ yên mà trở lại, nghiêm khắc hơn. Và mỗi khi nước Mỹ bước vào thời kỳ chia rẽ sâu sắc, tiếng vọng ấy lại dội về – nhắc rằng ta từng đi qua những năm tháng hỗn loạn, và vẫn tìm được lối ra. Robert A. Strong, học giả tại Đại học Virginia, cho rằng để hiểu nước Mỹ hiện nay, ta nên nhìn lại giai đoạn giữa hai đời tổng thống Ulysses S. Grant và William McKinley – từ năm 1876 đến 1896. Hai mươi năm ấy là một bài học sống động về cách một nền dân chủ có thể trượt dài trong chia rẽ, rồi chậm chạp tự điều chỉnh để tồn tại.
Khu vực Ấn Độ Dương-Thái Bình Dương (Indo-Pacific) đang nổi lên như trung tâm chiến lược của thế kỷ XXI, nơi giao thoa lợi ích của các cường quốc hàng đầu thế giới. Với 60% dân số toàn cầu, hơn một nửa GDP thế giới, và các tuyến hàng hải trọng yếu nhất hành tinh, khu vực này giữ vai trò quyết định trong ổn định an ninh, thương mại và năng lượng quốc tế...
Washington vừa bật sáng lại sau bốn mươi ngày tê liệt. Nhưng cái cảm giác “ổn rồi” chỉ là ảo giác. Đằng sau cái khoảnh khắc “chính phủ mở cửa trở lại” là câu chuyện nhiều tính toán, mà trung tâm của cuộc mặc cả chính là Obamacare – chương trình từng giúp hàng chục triệu người có bảo hiểm y tế – nay trở thành bệnh nhân bị đặt lên bàn mổ của chính quyền Trump, với con dao ngân sách trong tay Quốc hội.
Đã là người Việt Nam, nếu không trải qua, thì ít nhất cũng đã từng nghe hai chữ “nạn đói.” Cùng với lịch sử chiến tranh triền miên của dân tộc, hai chữ “nạn đói” như cơn ác mộng trong ký ức những người đã sống qua hai chế độ. Sử sách vẫn còn lưu truyền “Nạn đói năm Ất Dậu” với hình ảnh đau thương và những câu chuyện sống động. Có nhiều người cho rằng cũng vì những thăng trầm chính trị, kinh tế, mà người Việt tỵ nạn là một trong những dân tộc chịu thương chịu khó nhất để sinh tồn và vươn lên. Thế giới nhìn chung cho đến nay cũng chẳng phải là vẹn toàn. Dù các quốc gia bước sang thế kỷ 21 đã sản xuất đủ lương thực để nuôi sống tất cả mọi người, nạn đói vẫn tồn tại, bởi nhiều nguyên nhân. Có thể kể như chiến tranh, biến đổi khí hậu, thiên tai, bất bình đẳng, bất ổn kinh tế, và hệ thống lãnh đạo yếu kém.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.