Hôm nay,  

Kế Thứ Ba Của Tôn Tử

25/05/202017:56:00(Xem: 4701)

 


Binh thư Tôn Tử gồn có 36 kế, trong đó kế thứ ba là “mượn dao giết người” (tá đao sát nhân).  Trong chính trị cận đại Việt Nam, người ứng dụng nhuần nhuyễn kế nầy có lẽ là Hồ Chí Minh, người được đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) vinh danh có 169 bí danh, bút danh, biệt danh trong sách Những tên gọi, bí danh, bút danh của chủ tịch Hồ Chí Minh, do Bảo tàng Hồ Chí Minh biên soạn, Nxb. Chính Trị Quốc Gia ấn hành năm 2001 ở Hà Nội.  


Một người có 169 tên khác nhau và còn có thể có nhiều hơn nữa, ngay cả khi cầm quyền cũng dùng bí danh, bút danh để hành động, chứng tỏ người đó rất điêu luyện trong việc ứng dụng kế thứ ba của Tôn Tử trong chính trị.  Dưới đây là vài kinh nghiệm sử sách ghi lại được.


1.-  VỤ ÁN PHAN BỘI CHÂU 


Ngày 1-7-1925, Phan Bội Châu từ Hàng Châu đi Thượng Hải, thì bị Pháp bắt ở nhà ga Thượng Hải. Về sau, người ta mới được biết chính Lý Thụy đã bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu. (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Paris, 1962, tr. 38). Lý Thụy là Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh (sau nầy), mượn tay mật thám Pháp để loại Phan Bội Châu theo kế hoạch tiêu diệt tiềm lực, còn gọi là triệt người . 


Ở đây, xin ghi thêm: Con gái của Phan Bội Châu là Phan Thị Như Cương.  Bà Cương, có chồng là Vương Thúc Oánh.  Ông Oánh hoạt động trong nhóm Lý Thụy.  Biết tin Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu, bà Cương xin cha ly dị chồng, nhưng Phan Bội Châu không đồng ý.  Vâng lời cha, bà Cương không ly dị ông Oánh, nhưng từ đó âm thầm sống biệt lập, tức ly thân với ông Oánh suốt đời.  (Viết theo lời kể của cháu nội Phan Bội Châu, gọi bà Cương bằng cô ruột, gặp tại Toronto, không muốn đưa tên.) 


2.-  VỤ ÁN PHẠM QUỲNH VÀ NGÔ ĐÌNH KHÔI


Tại Huế, hai ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi lui về hưu trí từ khi Trần Trọng Kim lập chính phủ ngày 17-4-1945.  Ngày 23-8-1945, Ủy ban cộng sản (CS) địa phương Huế sai Phan Hàm và Võ Quang Hồ bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi, nhưng không giết.  


Vua Bảo Đại làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn (Huế) ngày 30-8-1945, có mặt đại diện CS trung ương là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.  Phái đoàn trung ương cùng cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945 ra Hà Nội.  Sau đó, CS Huế giết hai ông Quỳnh và Khôi ngày 6-9-1945.  


Cho đến nay, các nhà nghiên cứu về Phạm Quỳnh vẫn chưa tìm ra được ai đã ra lệnh giết Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi.  Chính hai người do Ủy ban CS cử đi bắt Phạm Quỳnh là Phan Hàm và Võ Quang Hồ, sau 1975 lên đến cấp tướng trong quân đội CS, cũng không biết hoặc biết mà không dám nói, vì sao và ai đã ra lệnh nầy?  Câu hỏi đặt ra là tại sao CS Huế không giết liền hai ông Quỳnh và Khôi, mà chỉ giết sau khi phái đoàn trung ương đến Huế?  Như thế là phải có chỉ thị từ trung ương, thì CS Huế mới giết hai ông.  Ai ở trung ương có quyền ra lệnh nầy nếu không phải là người quyền lực cao nhứt nước?  


Điều đáng nói thêm là sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh.  Sau đây là lời kể của bà Thức:”… Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi ra đi!… Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về… Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội vã có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu gia đình gởi người viết.).    Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội tháng 8-1945.  Bảo Đại thoái vị và rời Huế ngày 4-9-1945. Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945.  Nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Hà Nội, và đã cướp quyền trước khi Phạm Quỳnh bị giết.  Xin chú ý các điểm sau:  1) Tại sao Hồ Chí Minh nói dối về thời điểm việc trở về với hai người con gái của Phạm Quỳnh? 2)  Phạm Quỳnh là người có khả năng, có uy tín, và có chủ trương chính trị khác HCM và đảng CSVN. 3) Phạm Quỳnh biết rõ quá khứ của HCM.  


Nguyên vào năm 1922, chính phủ Pháp mời Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922.  Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp.  Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”.  Trên lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Tờ lịch ngày Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch ngày Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.] (Tài liệu do bà Phạm Thị Hoàn, con gái Phạm Quỳnh cung cấp cho người viết.)  


Chắc chắn Phạm Quỳnh biết hai việc mà Hồ Chí Minh đã làm ở Paris. 1) Xin vào học Trường Thuộc Địa Paris năm 1911, nhưng bị từ chối. 2) Gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris năm 1922. (Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la francmaçonnerie coloniale”, tạp chí Revue Française d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105.)  Tam Điểm là một hội đối lập và là kẻ thù của đảng CS.  Khi mới cướp chính quyền năm 1945, để lôi cuốn quần chúng, Hồ Chí Minh giấu kỹ hai việc trên.  Phải chăng vì vậy, qua phái đoàn trung ương đến Huế, Hồ Chí Minh ra lệnh cho CS địa phương Huế bịt miệng Phạm Quỳnh vĩnh viễn?    


3.-  NHỮNG VỤ ÁN THỜI HỘI NGHỊ FONTAINEBLEAU


Ngày 31-5-1946, Phạm Văn Đồng cầm đầu phái đoàn nhà nước CSVN sang Pháp dự hôi nghị Fontainebleau.  Hồ Chí Minh đi theo phái đoàn, với tư cách cá nhân, không cho biết lý do.   Tương truyền rằng trước khi ra đi, Hồ Chí Minh nói với quyền chủ tịch nước là Huỳnh Thúc Kháng như sau: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (Lấy không biến đổi [im lặng] để ứng phó với vạn điều biến đổi.)  Câu nầy rất văn hoa, nhưng thật ra Hồ Chí Minh dặn Huỳnh Thúc Kháng rằng “ông hãy im lặng, đừng hành động gì trước những biến chuyển của tình hình”.  Thật vậy, sau khi phái đoàn ra đi, sóng gió nổi lên khắp Việt Nam.  


Trước hết là vụ Ôn Như Hầu ở Hà Nội ngày 13-7-1946.  Vào ngày nầy, quân CS bất ngờ lục soát trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), số 9 phố Ôn Như hầu, Hà Nội, bắt những đảng viên QDĐ có mặt, tịch thu giấy tờ mà theo CS là có “kế hoạch đảo chánh” chính phủ Hồ Chí Minh.  Cộng sản còn cho rằng đã tìm thấy trong khu vực nhà nầy một số xác người, rồi lập biên bản kết tội QDĐ.  Hôm sau (14-7-1946), bộ trưởng Nội vụ, kiêm quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng, dựa vào biên bản nầy, ký quyết định trừng trị những người bị ghi là phạm tội trong biên bản. 


Sau biến cố Ôn Như Hầu, Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho Vệ quốc đoàn CS tấn công 7 chiến khu của QDĐ từ Hải Dương vào đến Bình Định từ tháng 7 đến cuối năm 1946, đánh dẹp các chiến khu QDĐ, bắt giam hàng ngàn đảng viên đảng nầy. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Sài Gòn: 1970, tt. 325-327.)


Vào cuối tháng 7-1946, một chuyến xe lửa chuyên chở võ khí ngang qua cầu Chiêm Sơn, xã Phú Tân, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, phải dừng lại vì có báo động.  Cộng sản cho rằng QDĐ phá hoại, bắt giam, tra tấn dã man các lãnh tụ, đảng viên QDĐ từ Quảng Nam vào Bình Định.


Ba vụ tấn công trên đây của CS không phải tình cờ xảy ra khi Hồ Chí Minh qua Pháp theo phái đoàn Phạm Văn Đồng.  Hồ Chí Minh không có nhiệm vụ gì mà vẫn đi Pháp, chẳng qua là Hồ Chí Minh sắp đặt trước công việc ở nhà, rồi tránh mặt để Võ Nguyên Giáp thi hành, mở cuộc khủng bố đối lập, và còn yêu cầu Huỳnh Thúc Kháng hãy “dĩ bất biến ứng vạn biến”.  Khi Hồ Chí Minh trở về Hà Nội ngày 21-10-1946, thì Võ Nguyên Giáp đã thanh toán xong các thành phần đối lâp.  Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ ngày 3-11-1946, không còn liên hiệp mà chính phủ mới gồm đại đa số là người của đảng CSVN.

4.-  VỤ ÁN BÀ NGUYỄN THỊ NĂM


Ngày 20-4-1953, sắc lệnh Cải cách ruộng đất đợt thứ 3 được ban hành. Nơi thực hiện đầu tiên là Thái Nguyên.  Người bị đấu tố đầu tiên là bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu buôn Cát Hanh Long nên người ta quen gọi là bà Cát Hanh Long. Bà Nguyễn Thị Năm bị đem ra đấu tố ba lần và bị giết ngày 9-7-1953. 

 

Theo hồi ký của Hoàng Tùng, từng là bí thư Trung ương đảng CSVN, khi nghe tin cố vấn Trung Quốc yêu cầu xử tử bà Nguyễn Thị Năm, có người báo tin cho Hồ Chí Minh biết. Hồ Chí Minh nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa.” (Internet:  Hồi ký Hoàng Tùng, mục “Những kỷ niệm về Bác Hồ”.) 


Theo tài liệu của một tác giả hiện ở trong nước, lúc đó là một ký giả báo Nhân Dân Hà Nội, có nhiệm vụ viết bài tường thuật vụ xử án bà Nguyễn Thị Năm, khi xảy ra vụ án thì: 1) Hồ Chí Minh bịt râu, hóa trang để đến dự đấu tố. 2) Trường Chinh đeo kính đen để khỏi bị nhận diện khi tham gia cuộc đấu tố. (Trần Đĩnh, Đèn cù, Hoa Kỳ: Người Việt Books, 2014, tr. 86.)   


Từ 1945 đến 1951, bà Năm đã từng dùng nhà mình làm nơi hội họp, che giấu, nuôi dưỡng nhiều cán bộ CS cao cấp. Bà còn đóng góp nhiều tiền bạc cho CS, nên việc đấu tố và xử tử bà Năm gây nhiều dư luận bất bình.  Vì vậy, trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953, xuất hiện bài viết nhan đề là “Địa chủ ác ghê” của tác giả C.B., lên án nặng nề địa chủ Nguyễn Thị Năm cùng hai con là những địa chủ gian ác, bóc lột.  Bài báo còn tố cáo gia đình bà Năm vừa trực tiếp, vừa gián tiếp giết chết 260 người.  


Độc giả không biết tác giả C.B. là ai? Chỉ những người làm việc trong tòa báo Nhân Dân giải thích rằng hai chữ C.B. là “của bác”, chứ còn ai vô đó nữa.  Xin mời vào bộ Hồ Chí Minh toàn tập từ tập 6 (1951-1952), sẽ thấy rất nhiều bài viết Hồ Chí Minh ký tên C.B. đăng trên báo Nhân Dân, và đăng lại trong sách nầy; ví dụ các trang 186, 187, 188-190, 202-204, 209-212, 215-220... (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, 1951-1952, in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000.)  Như vậy là ngoài mặt thì Hồ Chí Minh tỏ ra thương tiếc nạn nhân, nhưng chính Hồ Chí Minh là người quyết định cái chết của bà Năm.  


5.-  CÔNG HÀM 14-9-1958


Ngày 4-9-1958, Trung Cộng đưa ra “Tuyên cáo” về lãnh hải của Trung Cộng và tự xác định chủ quyền của Trung Cộng đối với một số quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Thực tế hai quần đảo nầy thuộc chủ quyền Việt Nam từ lâu đời.  Thế mà Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận tuyên cáo của Trung Cộng, nghĩa là công nhận hai quần đảo Việt Nam là của Trung Cộng.


Xin lưu ý là dưới chế độ độc tài CS, chính phủ chỉ là cánh tay nối dài của đảng CS.  Phạm Văn Đồng dù làm thủ tướng, chỉ là thư ký hành chánh cho đảng CS, nên phải có sự đồng ý của chủ tịch đảng CS kiêm chủ tịch nước là Hồ Chí Minh thì Phạm Văn Đồng mới dám kỳ công hàm nầy, vừa phạm tội bán nước, vừa phản dân tộc, vừa lưu xú muôn đời trong lịch sử. 


6.-  VỤ TÀN SÁT TẾT MẬU THÂN


Hầu như người Việt nào cũng đều biết biến cố Tết Mậu Thân (1968), gây thiệt hại nhiều thường dân vô tội ở các thành phố miền Nam Việt Nam, nhứt là Huế.  Nhiều tài liệu của CS cho rằng Hồ Chí Minh đi dưỡng bệnh ở Bắc Kinh trong dịp Tết Mậu Thân.  Tuy nhiên, đây chỉ là động tác giả.  Hồ Chí Minh mượn cớ bệnh tật, qua Bắc Kinh dưỡng bệnh, không có mặt ở Hà Nội, nhằm đánh lừa dư luận thế giới để khỏi chú ý đền việc CS sửa soạn tấn công Tết Mậu Thân, và chứng tỏ Hồ Chí Minh không tham gia vụ giết người tập thể tàn bạo nhứt trong lịch sử nước Việt.  


Tuy nhiên, sự thật như sau:  Ngày 5-09-1967, Hồ Chí Minh đi Bắc Kinh, nói là để dưỡng bênh. Sau đó, Hồ Chí Minh về Hà Nội ngày 23-12-1967, chủ trì cuộc họp Bộ chính trị ngày 28-12-1967, quyết định lần cuối về lịch tổng tấn công Nam Việt Nam.  Sáng Chủ nhật 31-12-1967, nhân viên đài phát thanh Hà Nội đến phủ chủ tịch thâu âm bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh.  Bài nầy được báo Nhân Dân Hà Nội đăng ngày 01-01-1968.  Trong khi đó, Hồ Chí Minh trở qua Bắc Kinh chiều ngày 01-01-1958.  


Nhân dịp Tết âm lich Mậu Thân, báo Nhân Dân đăng lại bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh, và Đài Hà Nội phát thanh lại lần nữa vào phút giao thừa năm Mậu Thân, làm hiệu lệnh cho CS ở Nam Việt Nam nổi lên tổng tấn công. Xin theo dõi thái độ Hồ Chí Minh khi cuộc tổng tấn công bắt đầu qua lời ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ Chí Minh, là người đã đi theo Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh đầu năm 1968.  Vũ Kỳ kể lại như sau: “Đúng là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 Bác chỉ đạo và theo dõi rất sát. Bác rất vui với từng trận đánh thắng của quân và dân miền Nam từ Quảng Trị đến Nam Bộ. Mỗi trận thắng làm cho Bác khỏe thêm.” (http://yenbai.gov.vn/hoc-tap-lam-theo-loi-bac/noidung/tintuc/ Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?ItemID=5&l=CuocdoihoatdongcuaC)  [Chữ in đậm do người viết bài nầy.]


Hành động của Hồ Chí Minh rất kín đáo, làm cho nhiều người lầm tưởng rằng Hồ Chí Minh ở xa, không trách nhiệm về biến cố Mậu Thân, kể cả Bùi Tín, một cựu đại tá CS nói rằng Hồ Chí Minh không tán thành tổng tấn công, nên bị đẩy qua Bắc Kinh. (Bùi Tín trả lời BBC 19-02-2018.)  Bị đẩy hay gài bẫy? 


Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân thất bại nặng nề. (Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, tr. 35 và tr. 57.)  Mỗi trận thắng làm cho Hồ Chí Minh khỏe thêm thì cuộc thảm bại càng làm cho Hồ Chí Minh buồn rầu, căn bệnh gia tăng và chết ngày 2-9-1969.


KẾT LUẬN


Trong sách Les deux Viet-Nam, tác giả Bernard Fall, một ký gả và sử gia, viết nhiều sách về chiến tranh Việt Nam từ 1945 cho đến khi ông bị trúng mìn tử nạn năm 1967 trên đoạn đường giữa Huế và Quảng Trị, đưa ra nhận xét về Hồ Chí Minh như sau: “Người ta biết rằng ông Hồ là một kịch sĩ có biệt tài đánh lừa kẻ đối thoại.”  (Paris: Nxb. Payot, 1967, tr. 102.)  Đó là một người ngoại quốc.  


Còn một nhà văn đã từng ở gần Hồ Chí Minh, quay phim cho Hồ Chí Minh, là ông Vũ Thư Hiên, cũng nhận xét tương tự: “Trong hành xử ông [HCM] là một diễn viên kỳ tài.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, California: Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr.459.) 


Hồ Chí Minh ứng dụng tài đóng kịch vào chính trị, thi hành kế “tá đao sát nhân” hết sức tài tình.  Tuy nhiên, không phải tình cờ mà  báo Polska Times, tức Thời báo Ba Lan, số ngày 5-3-2013 đưa ra một bảng sắp hạng 13 nhà độc tài khát máu nhứt thế kỷ 20, trong đó Hồ Chí Minh đứng thứ 11, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,7 triệu người Việt. (Điện báo Đàn Chim Việt 20-3-2013 dịch nguyên văn bảng sắp hạng nầy.).  Đúng là “Bề ngoài thơn thớt nói cười,/ Mà trong….” (Truyện Kiều câu 1815-1816.).


Các học giả, các giáo sư tiến sĩ trong và ngoài nước, khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh, xin đừng quên những thành tích “tá đao sát nhân” trên đây của Hồ Chí Minh, cũng như bảng sắp hạng của báo Polska Times, thì mới trình bày thật đầy đủ “sự nghiệp” của Hồ Chí Minh.


TRẦN GIA PHỤNG

(Dallas, Texas)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm 1895, Alfred Nobel – nhà khoa học bị ám ảnh bởi cái giá mà nhân loại phải trả từ phát minh của mình – đã để lại di chúc năm 1895 rằng tài sản của ông sẽ dùng để tài trợ các giải thưởng “mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại.” Đối với Nobel Hòa Bình, ông có phần đặc biệt: giải thưởng này sẽ được trao cho người đã “có nhiều hành động hoặc nỗ lực mang đến sự đoàn kết, hòa bình giữa các quốc gia, bãi bỏ hoặc giảm bớt quân đội thường trực, tổ chức và thúc đẩy các hội nghị hòa bình.” Sứ mệnh chọn lựa được giao cho Quốc Hội Na Uy, có lẽ vì ông tin rằng Na Uy – khi đó còn nhỏ bé và trung lập – sẽ ít bị cám dỗ bởi chính trị quyền lực.
Trung Hoa ngày nay như kinh thành giữa sa mạc, vẻ yên ổn bên ngoài chỉ là lớp sơn son thếp vàng phủ lên nền đá đã rạn. Thế giới đứng ngoài quan sát, vừa lo nó sụp, vừa biết nó trụ lại nhờ ảo ảnh quyền lực và niềm tin vay mượn. Dưới lớp hào nhoáng của “Giấc mộng Trung Hoa” là một cơ đồ quyền lực đang già nua trong chính tuổi trẻ của mình. Bởi sức mạnh của nó không khởi từ niềm tin, mà từ nỗi sợ — và nỗi sợ, tự thuở khai triều lập quốc, chưa bao giờ là nền tảng lâu bền.
Ngày 8 tháng 10 năm 2025, tại tòa án liên bang ở Alexandria, bang Virginia, cựu Giám đốc Cơ quan Điều tra Liên bang (FBI) James Comey không nhận tội đối với hai cáo buộc hình sự. Cáo trạng nêu rằng vào tháng 9 năm 2020, Comey đã nói dối Quốc Hội khi vẫn giữ nguyên lời khai trong buổi điều trần trước đó rằng ông không hề cho phép để lộ thông tin về cuộc điều tra của FBI liên quan đến Hillary Clinton. Theo nhiều bình luận gia pháp lý, từ cánh tả đến cánh hữu, việc truy tố Comey chủ yếu chỉ là do chính phủ liên bang đang cố tình nhắm vào kẻ mà Tổng thống “thấy không vừa mắt.” Comey là người đứng đầu cuộc điều tra nghi án Nga can thiệp bầu cử tổng thống 2016 và bị Trump lột chức vào năm 2017.
Sau sáu ngày đột ngột “bặt tiếng,” chương trình Jimmy Kimmel Live, của MC kiêm diễn viên hài và nhà biên kịch nổi tiếng, đã trở lại với khán thính giả vào tối 23/9/2025. Sự trở lại này, chỉ vỏn vẹn sau gần một tuần bị đình chỉ, không chỉ là tin vui với những người yêu tiếng cười đêm khuya của truyền hình Mỹ, mà còn là một hồi chuông cảnh tỉnh, kéo theo những bàn luận trái chiều, chạm đến cốt lõi của tự do ngôn luận, một trong những quyền thiêng liêng nhất trong thể chế dân chủ.
Texas, mùa thu 2025 – trên khuôn viên đại học giữa vùng đất vốn tự hào là “trái tim bảo thủ của nước Mỹ”, thay vì nghe tiếng lá thu rơi, người ta lại nghe tiếng giày đinh vang vọng, bước chân của bóng ma McCarthyism quay về - phiên bản thế kỷ 21 - trở lại giảng đường với tốc độ và sự kinh dị của thời đại kỹ thuật số. Ngày 9 tháng 9, trên bục giảng của trường Texas A&M University, giáo sư Melissa McCoul trong giờ văn học thiếu nhi, dùng hình một con kỳ lân tím để nói với sinh viên rằng bản sắc con người không chỉ có hai nửa nam–nữ. Một sinh viên giơ tay hỏi: “Điều này có hợp pháp không?” và viện dẫn sắc lệnh mà Tổng thống Donald Trump ký hồi tháng Giêng, tuyên bố chỉ có hai giới tính sinh học. Bà McCoul đáp bằng lý lẽ, không viện dẫn chính trị. Nhưng một chiếc điện thoại trong lớp đã ngầm quay lại hình ảnh. Và chỉ ít lâu sau, cả nước đều xem đoạn clip ấy – không phải để học, mà để phán xét.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi thể chế, phương Tây và Việt Nam đang phải đối diện trước những thách thức nghiêm trọng về cải cách chính sách để cho phù hợp với nhu cầu của thời đại mới, nhất là vai trò của pháp luật. Pháp luật là nền tảng thiết yếu cho sự vận hành ổn định và công bằng của xã hội. Là hệ thống quy phạm điều chỉnh hành vi con người, pháp luật không chỉ bảo vệ quyền lợi cá nhân và tập thể mà còn thúc đẩy sự phát triển bền vững. Trong xã hội hiện đại, vai trò của pháp luật được thể hiện rõ nét qua các lĩnh vực như bảo vệ an ninh quốc phòng, duy trì trật tự xã hội, bảo đảm quyền tự do cá nhân, phát triển phúc lợi xã hội, và thúc đẩy tinh thần hợp tác cũng như hội nhập.
Ngày 30 tháng 9 năm 2025, tại căn cứ Thủy Quân Lục Chiến ở Quantico, Virginia, Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth bước lên sân khấu trước hàng trăm tướng và đô đốc được triệu tập từ khắp nơi trên thế giới. Ông tuyên bố sẽ “cải tổ văn hóa quân đội” bằng mười chỉ thị mới, nhằm quét sạch cái mà ông gọi là “rác rưởi thức tỉnh” và khôi phục “tinh thần chiến binh”. Cụm từ ấy – nửa ca tụng bạo lực, nửa tán dương cơ bắp – nay đã trở thành thương hiệu chính trị của Hegseth. Trong cuốn Cuộc Chiến Chống Lại Những Chiến Binh (2024), ông cho rằng việc phụ nữ được đưa vào các vai trò chiến đấu đã “làm cạn kiệt” tinh thần này, khiến quân đội Hoa Kỳ “ít sát thương hơn.” Nghe qua, người ta tưởng quân đội chỉ tồn tại để đong máu đếm xác.
Ông bà xưa đã nói, nắm thì “nắm kẻ có tóc ai nắm kẻ trọc đầu.” Cách nói dân gian này rất cụ thể và dễ hình dung, người có tóc thì dễ bị nắm, bị túm, còn người trọc đầu thì không thể nắm được. Mang câu nói này vào chính trường Mỹ hiện tại, quả là khôi hài, nhưng không kém màu bi kịch. Nó phản ánh một sự thật trần trụi và không thể tránh khỏi: Quyền lực, chính sách, sắc lệnh hành pháp, các cuộc chiến pháp lý và ‘tuổi thọ’ chính trị của người đứng đầu nhánh hành pháp đang phụ thuộc vào sự phục tùng của các nhà lãnh đạo và những tài phiệt. Họ là ai? Họ là một mạng lưới của các quan chức, nhà lập pháp, giám đốc điều hành truyền thông, nhà tài trợ…, những người đã chọn chọ họ một thế đứng, xuôi theo những gì tổng thống muốn.
Bộ Tư Pháp Hoa Kỳ đang đánh một đòn nguy hiểm: huy động các văn phòng công tố đi điều tra mạng lưới từ thiện Open Society Foundations của gia đình Soros, một quỹ từ thiện quốc tế, nổi tiếng với việc tài trợ cho các dự án dân chủ, giáo dục và nhân quyền trên khắp thế giới. Danh sách cáo buộc nghe cứ như “vật lạ”: từ đốt phá đến tài trợ khủng bố. Open Society Foundations lập tức phản đối, khẳng định mình hoạt động hợp pháp, và nhắc lại điều mà bất cứ người tỉnh táo nào cũng hiểu: khi chính quyền có thể tùy tiện lấy một nhóm dân sự làm vật tế, thì quyền của mọi nhóm khác cũng chẳng còn gì bảo đảm.
Trong nhiều thập niên qua, giải pháp hai nhà nước luôn được xem là phương án khả thi nhằm mang lại hòa bình cho khu vực Trung Đông. Tuy nhiên, tiến trình này vẫn chưa đạt được kết quả cụ thể. Gần đây, cuộc tranh luận về việc công nhận nhà nước Palestine đang có những chuyển biến mới khi Pháp và Ả Rập Xê Út tổ chức một hội nghị quốc tế tại New York, ngay trước thềm Đại hội thường niên của Liên Hiệp Quốc.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.