Hôm nay,  

Kế Thứ Ba Của Tôn Tử

25/05/202017:56:00(Xem: 4699)

 


Binh thư Tôn Tử gồn có 36 kế, trong đó kế thứ ba là “mượn dao giết người” (tá đao sát nhân).  Trong chính trị cận đại Việt Nam, người ứng dụng nhuần nhuyễn kế nầy có lẽ là Hồ Chí Minh, người được đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) vinh danh có 169 bí danh, bút danh, biệt danh trong sách Những tên gọi, bí danh, bút danh của chủ tịch Hồ Chí Minh, do Bảo tàng Hồ Chí Minh biên soạn, Nxb. Chính Trị Quốc Gia ấn hành năm 2001 ở Hà Nội.  


Một người có 169 tên khác nhau và còn có thể có nhiều hơn nữa, ngay cả khi cầm quyền cũng dùng bí danh, bút danh để hành động, chứng tỏ người đó rất điêu luyện trong việc ứng dụng kế thứ ba của Tôn Tử trong chính trị.  Dưới đây là vài kinh nghiệm sử sách ghi lại được.


1.-  VỤ ÁN PHAN BỘI CHÂU 


Ngày 1-7-1925, Phan Bội Châu từ Hàng Châu đi Thượng Hải, thì bị Pháp bắt ở nhà ga Thượng Hải. Về sau, người ta mới được biết chính Lý Thụy đã bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu. (Hoàng Văn Chí, Từ thực dân đến cộng sản, Paris, 1962, tr. 38). Lý Thụy là Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí Minh (sau nầy), mượn tay mật thám Pháp để loại Phan Bội Châu theo kế hoạch tiêu diệt tiềm lực, còn gọi là triệt người . 


Ở đây, xin ghi thêm: Con gái của Phan Bội Châu là Phan Thị Như Cương.  Bà Cương, có chồng là Vương Thúc Oánh.  Ông Oánh hoạt động trong nhóm Lý Thụy.  Biết tin Lý Thụy bán tin cho Pháp bắt Phan Bội Châu, bà Cương xin cha ly dị chồng, nhưng Phan Bội Châu không đồng ý.  Vâng lời cha, bà Cương không ly dị ông Oánh, nhưng từ đó âm thầm sống biệt lập, tức ly thân với ông Oánh suốt đời.  (Viết theo lời kể của cháu nội Phan Bội Châu, gọi bà Cương bằng cô ruột, gặp tại Toronto, không muốn đưa tên.) 


2.-  VỤ ÁN PHẠM QUỲNH VÀ NGÔ ĐÌNH KHÔI


Tại Huế, hai ông Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi lui về hưu trí từ khi Trần Trọng Kim lập chính phủ ngày 17-4-1945.  Ngày 23-8-1945, Ủy ban cộng sản (CS) địa phương Huế sai Phan Hàm và Võ Quang Hồ bắt Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi, nhưng không giết.  


Vua Bảo Đại làm lễ thoái vị tại cửa Ngọ Môn (Huế) ngày 30-8-1945, có mặt đại diện CS trung ương là Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng, và Cù Huy Cận.  Phái đoàn trung ương cùng cựu hoàng Bảo Đại rời Huế ngày 4-9-1945 ra Hà Nội.  Sau đó, CS Huế giết hai ông Quỳnh và Khôi ngày 6-9-1945.  


Cho đến nay, các nhà nghiên cứu về Phạm Quỳnh vẫn chưa tìm ra được ai đã ra lệnh giết Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi.  Chính hai người do Ủy ban CS cử đi bắt Phạm Quỳnh là Phan Hàm và Võ Quang Hồ, sau 1975 lên đến cấp tướng trong quân đội CS, cũng không biết hoặc biết mà không dám nói, vì sao và ai đã ra lệnh nầy?  Câu hỏi đặt ra là tại sao CS Huế không giết liền hai ông Quỳnh và Khôi, mà chỉ giết sau khi phái đoàn trung ương đến Huế?  Như thế là phải có chỉ thị từ trung ương, thì CS Huế mới giết hai ông.  Ai ở trung ương có quyền ra lệnh nầy nếu không phải là người quyền lực cao nhứt nước?  


Điều đáng nói thêm là sau khi Phạm Quỳnh bị giết, hai người con gái đầu của ông là Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức ra Hà Nội gặp Hồ Chí Minh.  Sau đây là lời kể của bà Thức:”… Tháng 8 năm 1945, Thầy tôi ra đi!… Sau đó, chị tôi [tên Giá] và tôi nhờ một anh bạn là Vũ Đình Huỳnh ngày ấy là garde-corps [cận vệ] cho cụ Hồ, giới thiệu đến thăm cụ và hỏi truyện [tức chuyện Phạm Quỳnh]. Cụ bảo: “Hồi ấy tôi chưa về… Và trong thời kỳ khởi nghĩa quá vội vã có thể có nhiều sai sót đáng tiếc…” (Hồi ký tại Paris ngày 28-10-1992 của bà Thức, nhân kỷ niệm 100 năm sinh niên Phạm Quỳnh, tài liệu gia đình gởi người viết.).    Hồ Chí Minh cướp chính quyền ở Hà Nội tháng 8-1945.  Bảo Đại thoái vị và rời Huế ngày 4-9-1945. Phạm Quỳnh bị giết ngày 6-9-1945.  Nghĩa là Hồ Chí Minh đã về Hà Nội, và đã cướp quyền trước khi Phạm Quỳnh bị giết.  Xin chú ý các điểm sau:  1) Tại sao Hồ Chí Minh nói dối về thời điểm việc trở về với hai người con gái của Phạm Quỳnh? 2)  Phạm Quỳnh là người có khả năng, có uy tín, và có chủ trương chính trị khác HCM và đảng CSVN. 3) Phạm Quỳnh biết rõ quá khứ của HCM.  


Nguyên vào năm 1922, chính phủ Pháp mời Phạm Quỳnh đến Paris diễn thuyết tại Trường Thuộc Địa (École Coloniale) ngày 31-5-1922.  Sau đó, Phạm Quỳnh ở lại Paris để đi diễn thuyết vài nơi, kể cả Viện Hàn lâm Pháp.  Trong thời gian ở Paris, Phạm Quỳnh ghi nhật ký là đã gặp gỡ những “chí sĩ vào hạng bị hiềm nghi”.  Trên lịch để bàn, Phạm Quỳnh ghi rõ: [Tờ lịch ngày Thứ Năm, 13-17]: “Ăn cơm Annam với Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc ở nhà Trường (6 Villa des Gobelins)”. [Tờ lịch ngày Chủ nhật 16-7]: “Ở nhà, Trường, Ái Quốc và Chuyền đến chơi.” [Chuyền có thể là Nguyễn Thế Truyền.] (Tài liệu do bà Phạm Thị Hoàn, con gái Phạm Quỳnh cung cấp cho người viết.)  


Chắc chắn Phạm Quỳnh biết hai việc mà Hồ Chí Minh đã làm ở Paris. 1) Xin vào học Trường Thuộc Địa Paris năm 1911, nhưng bị từ chối. 2) Gia nhập Hội Tam Điểm (Franc-Maçonnerie) ở Paris năm 1922. (Jacques Dalloz, “Les Vietnamiens dans la francmaçonnerie coloniale”, tạp chí Revue Française d’Histoire d’Outre-mer, Tam cá nguyệt 3, 1998, Paris: Société Française d’Histoire d’Outre-mer, tr. 105.)  Tam Điểm là một hội đối lập và là kẻ thù của đảng CS.  Khi mới cướp chính quyền năm 1945, để lôi cuốn quần chúng, Hồ Chí Minh giấu kỹ hai việc trên.  Phải chăng vì vậy, qua phái đoàn trung ương đến Huế, Hồ Chí Minh ra lệnh cho CS địa phương Huế bịt miệng Phạm Quỳnh vĩnh viễn?    


3.-  NHỮNG VỤ ÁN THỜI HỘI NGHỊ FONTAINEBLEAU


Ngày 31-5-1946, Phạm Văn Đồng cầm đầu phái đoàn nhà nước CSVN sang Pháp dự hôi nghị Fontainebleau.  Hồ Chí Minh đi theo phái đoàn, với tư cách cá nhân, không cho biết lý do.   Tương truyền rằng trước khi ra đi, Hồ Chí Minh nói với quyền chủ tịch nước là Huỳnh Thúc Kháng như sau: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (Lấy không biến đổi [im lặng] để ứng phó với vạn điều biến đổi.)  Câu nầy rất văn hoa, nhưng thật ra Hồ Chí Minh dặn Huỳnh Thúc Kháng rằng “ông hãy im lặng, đừng hành động gì trước những biến chuyển của tình hình”.  Thật vậy, sau khi phái đoàn ra đi, sóng gió nổi lên khắp Việt Nam.  


Trước hết là vụ Ôn Như Hầu ở Hà Nội ngày 13-7-1946.  Vào ngày nầy, quân CS bất ngờ lục soát trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ), số 9 phố Ôn Như hầu, Hà Nội, bắt những đảng viên QDĐ có mặt, tịch thu giấy tờ mà theo CS là có “kế hoạch đảo chánh” chính phủ Hồ Chí Minh.  Cộng sản còn cho rằng đã tìm thấy trong khu vực nhà nầy một số xác người, rồi lập biên bản kết tội QDĐ.  Hôm sau (14-7-1946), bộ trưởng Nội vụ, kiêm quyền chủ tịch nước Huỳnh Thúc Kháng, dựa vào biên bản nầy, ký quyết định trừng trị những người bị ghi là phạm tội trong biên bản. 


Sau biến cố Ôn Như Hầu, Võ Nguyên Giáp ra lệnh cho Vệ quốc đoàn CS tấn công 7 chiến khu của QDĐ từ Hải Dương vào đến Bình Định từ tháng 7 đến cuối năm 1946, đánh dẹp các chiến khu QDĐ, bắt giam hàng ngàn đảng viên đảng nầy. (Hoàng Văn Đào, Việt Nam Quốc Dân Đảng, Sài Gòn: 1970, tt. 325-327.)


Vào cuối tháng 7-1946, một chuyến xe lửa chuyên chở võ khí ngang qua cầu Chiêm Sơn, xã Phú Tân, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam, phải dừng lại vì có báo động.  Cộng sản cho rằng QDĐ phá hoại, bắt giam, tra tấn dã man các lãnh tụ, đảng viên QDĐ từ Quảng Nam vào Bình Định.


Ba vụ tấn công trên đây của CS không phải tình cờ xảy ra khi Hồ Chí Minh qua Pháp theo phái đoàn Phạm Văn Đồng.  Hồ Chí Minh không có nhiệm vụ gì mà vẫn đi Pháp, chẳng qua là Hồ Chí Minh sắp đặt trước công việc ở nhà, rồi tránh mặt để Võ Nguyên Giáp thi hành, mở cuộc khủng bố đối lập, và còn yêu cầu Huỳnh Thúc Kháng hãy “dĩ bất biến ứng vạn biến”.  Khi Hồ Chí Minh trở về Hà Nội ngày 21-10-1946, thì Võ Nguyên Giáp đã thanh toán xong các thành phần đối lâp.  Hồ Chí Minh cải tổ chính phủ ngày 3-11-1946, không còn liên hiệp mà chính phủ mới gồm đại đa số là người của đảng CSVN.

4.-  VỤ ÁN BÀ NGUYỄN THỊ NĂM


Ngày 20-4-1953, sắc lệnh Cải cách ruộng đất đợt thứ 3 được ban hành. Nơi thực hiện đầu tiên là Thái Nguyên.  Người bị đấu tố đầu tiên là bà Nguyễn Thị Năm, chủ hiệu buôn Cát Hanh Long nên người ta quen gọi là bà Cát Hanh Long. Bà Nguyễn Thị Năm bị đem ra đấu tố ba lần và bị giết ngày 9-7-1953. 

 

Theo hồi ký của Hoàng Tùng, từng là bí thư Trung ương đảng CSVN, khi nghe tin cố vấn Trung Quốc yêu cầu xử tử bà Nguyễn Thị Năm, có người báo tin cho Hồ Chí Minh biết. Hồ Chí Minh nói: “Tôi đồng ý người có tội thì phải xử thôi, nhưng tôi cho là không phải đạo nếu phát súng đầu tiên lại nổ vào người đàn bà, mà người ấy lại giúp đỡ cho cách mạng. Người Pháp nói không nên đánh vào đàn bà, dù chỉ đánh bằng một cành hoa.” (Internet:  Hồi ký Hoàng Tùng, mục “Những kỷ niệm về Bác Hồ”.) 


Theo tài liệu của một tác giả hiện ở trong nước, lúc đó là một ký giả báo Nhân Dân Hà Nội, có nhiệm vụ viết bài tường thuật vụ xử án bà Nguyễn Thị Năm, khi xảy ra vụ án thì: 1) Hồ Chí Minh bịt râu, hóa trang để đến dự đấu tố. 2) Trường Chinh đeo kính đen để khỏi bị nhận diện khi tham gia cuộc đấu tố. (Trần Đĩnh, Đèn cù, Hoa Kỳ: Người Việt Books, 2014, tr. 86.)   


Từ 1945 đến 1951, bà Năm đã từng dùng nhà mình làm nơi hội họp, che giấu, nuôi dưỡng nhiều cán bộ CS cao cấp. Bà còn đóng góp nhiều tiền bạc cho CS, nên việc đấu tố và xử tử bà Năm gây nhiều dư luận bất bình.  Vì vậy, trên báo Nhân Dân ngày 21-7-1953, xuất hiện bài viết nhan đề là “Địa chủ ác ghê” của tác giả C.B., lên án nặng nề địa chủ Nguyễn Thị Năm cùng hai con là những địa chủ gian ác, bóc lột.  Bài báo còn tố cáo gia đình bà Năm vừa trực tiếp, vừa gián tiếp giết chết 260 người.  


Độc giả không biết tác giả C.B. là ai? Chỉ những người làm việc trong tòa báo Nhân Dân giải thích rằng hai chữ C.B. là “của bác”, chứ còn ai vô đó nữa.  Xin mời vào bộ Hồ Chí Minh toàn tập từ tập 6 (1951-1952), sẽ thấy rất nhiều bài viết Hồ Chí Minh ký tên C.B. đăng trên báo Nhân Dân, và đăng lại trong sách nầy; ví dụ các trang 186, 187, 188-190, 202-204, 209-212, 215-220... (Hồ Chí Minh toàn tập, tập 6, 1951-1952, in lần thứ hai, Hà Nội: Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 2000.)  Như vậy là ngoài mặt thì Hồ Chí Minh tỏ ra thương tiếc nạn nhân, nhưng chính Hồ Chí Minh là người quyết định cái chết của bà Năm.  


5.-  CÔNG HÀM 14-9-1958


Ngày 4-9-1958, Trung Cộng đưa ra “Tuyên cáo” về lãnh hải của Trung Cộng và tự xác định chủ quyền của Trung Cộng đối với một số quần đảo, trong đó có Hoàng Sa và Trường Sa. Thực tế hai quần đảo nầy thuộc chủ quyền Việt Nam từ lâu đời.  Thế mà Phạm Văn Đồng ký công hàm ngày 14-9-1958 thừa nhận tuyên cáo của Trung Cộng, nghĩa là công nhận hai quần đảo Việt Nam là của Trung Cộng.


Xin lưu ý là dưới chế độ độc tài CS, chính phủ chỉ là cánh tay nối dài của đảng CS.  Phạm Văn Đồng dù làm thủ tướng, chỉ là thư ký hành chánh cho đảng CS, nên phải có sự đồng ý của chủ tịch đảng CS kiêm chủ tịch nước là Hồ Chí Minh thì Phạm Văn Đồng mới dám kỳ công hàm nầy, vừa phạm tội bán nước, vừa phản dân tộc, vừa lưu xú muôn đời trong lịch sử. 


6.-  VỤ TÀN SÁT TẾT MẬU THÂN


Hầu như người Việt nào cũng đều biết biến cố Tết Mậu Thân (1968), gây thiệt hại nhiều thường dân vô tội ở các thành phố miền Nam Việt Nam, nhứt là Huế.  Nhiều tài liệu của CS cho rằng Hồ Chí Minh đi dưỡng bệnh ở Bắc Kinh trong dịp Tết Mậu Thân.  Tuy nhiên, đây chỉ là động tác giả.  Hồ Chí Minh mượn cớ bệnh tật, qua Bắc Kinh dưỡng bệnh, không có mặt ở Hà Nội, nhằm đánh lừa dư luận thế giới để khỏi chú ý đền việc CS sửa soạn tấn công Tết Mậu Thân, và chứng tỏ Hồ Chí Minh không tham gia vụ giết người tập thể tàn bạo nhứt trong lịch sử nước Việt.  


Tuy nhiên, sự thật như sau:  Ngày 5-09-1967, Hồ Chí Minh đi Bắc Kinh, nói là để dưỡng bênh. Sau đó, Hồ Chí Minh về Hà Nội ngày 23-12-1967, chủ trì cuộc họp Bộ chính trị ngày 28-12-1967, quyết định lần cuối về lịch tổng tấn công Nam Việt Nam.  Sáng Chủ nhật 31-12-1967, nhân viên đài phát thanh Hà Nội đến phủ chủ tịch thâu âm bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh.  Bài nầy được báo Nhân Dân Hà Nội đăng ngày 01-01-1968.  Trong khi đó, Hồ Chí Minh trở qua Bắc Kinh chiều ngày 01-01-1958.  


Nhân dịp Tết âm lich Mậu Thân, báo Nhân Dân đăng lại bài thơ chúc Tết của Hồ Chí Minh, và Đài Hà Nội phát thanh lại lần nữa vào phút giao thừa năm Mậu Thân, làm hiệu lệnh cho CS ở Nam Việt Nam nổi lên tổng tấn công. Xin theo dõi thái độ Hồ Chí Minh khi cuộc tổng tấn công bắt đầu qua lời ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ Chí Minh, là người đã đi theo Hồ Chí Minh qua Bắc Kinh đầu năm 1968.  Vũ Kỳ kể lại như sau: “Đúng là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968 Bác chỉ đạo và theo dõi rất sát. Bác rất vui với từng trận đánh thắng của quân và dân miền Nam từ Quảng Trị đến Nam Bộ. Mỗi trận thắng làm cho Bác khỏe thêm.” (http://yenbai.gov.vn/hoc-tap-lam-theo-loi-bac/noidung/tintuc/ Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?ItemID=5&l=CuocdoihoatdongcuaC)  [Chữ in đậm do người viết bài nầy.]


Hành động của Hồ Chí Minh rất kín đáo, làm cho nhiều người lầm tưởng rằng Hồ Chí Minh ở xa, không trách nhiệm về biến cố Mậu Thân, kể cả Bùi Tín, một cựu đại tá CS nói rằng Hồ Chí Minh không tán thành tổng tấn công, nên bị đẩy qua Bắc Kinh. (Bùi Tín trả lời BBC 19-02-2018.)  Bị đẩy hay gài bẫy? 


Cuộc tổng tấn công Tết Mậu Thân thất bại nặng nề. (Lưu Văn Lợi và Nguyễn Anh Vũ, Các cuộc thương lượng Lê Đức Thọ - Kissinger tại Paris, tr. 35 và tr. 57.)  Mỗi trận thắng làm cho Hồ Chí Minh khỏe thêm thì cuộc thảm bại càng làm cho Hồ Chí Minh buồn rầu, căn bệnh gia tăng và chết ngày 2-9-1969.


KẾT LUẬN


Trong sách Les deux Viet-Nam, tác giả Bernard Fall, một ký gả và sử gia, viết nhiều sách về chiến tranh Việt Nam từ 1945 cho đến khi ông bị trúng mìn tử nạn năm 1967 trên đoạn đường giữa Huế và Quảng Trị, đưa ra nhận xét về Hồ Chí Minh như sau: “Người ta biết rằng ông Hồ là một kịch sĩ có biệt tài đánh lừa kẻ đối thoại.”  (Paris: Nxb. Payot, 1967, tr. 102.)  Đó là một người ngoại quốc.  


Còn một nhà văn đã từng ở gần Hồ Chí Minh, quay phim cho Hồ Chí Minh, là ông Vũ Thư Hiên, cũng nhận xét tương tự: “Trong hành xử ông [HCM] là một diễn viên kỳ tài.” (Vũ Thư Hiên, Đêm giữa ban ngày, hồi ký chính trị của một người không làm chính trị, California: Nxb. Văn Nghệ, 1997, tr.459.) 


Hồ Chí Minh ứng dụng tài đóng kịch vào chính trị, thi hành kế “tá đao sát nhân” hết sức tài tình.  Tuy nhiên, không phải tình cờ mà  báo Polska Times, tức Thời báo Ba Lan, số ngày 5-3-2013 đưa ra một bảng sắp hạng 13 nhà độc tài khát máu nhứt thế kỷ 20, trong đó Hồ Chí Minh đứng thứ 11, chịu trách nhiệm về cái chết của 1,7 triệu người Việt. (Điện báo Đàn Chim Việt 20-3-2013 dịch nguyên văn bảng sắp hạng nầy.).  Đúng là “Bề ngoài thơn thớt nói cười,/ Mà trong….” (Truyện Kiều câu 1815-1816.).


Các học giả, các giáo sư tiến sĩ trong và ngoài nước, khi nghiên cứu về Hồ Chí Minh, xin đừng quên những thành tích “tá đao sát nhân” trên đây của Hồ Chí Minh, cũng như bảng sắp hạng của báo Polska Times, thì mới trình bày thật đầy đủ “sự nghiệp” của Hồ Chí Minh.


TRẦN GIA PHỤNG

(Dallas, Texas)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từng là một trung tâm thương mại sầm uất và biểu tượng cho niềm hy vọng đang dâng cao về tương lai dân chủ trong khu vực, Hồng Kông hiện đang đối mặt với các biện pháp kiểm soát ngày càng siết chặt của chính quyền Bắc Kinh. Từ năm 2019 cho đến nay, khoảng hơn 200.000 người đã ra đi để cố thoát khỏi bầu không khí chính trị ngày càng ngột ngạt. Với việc áp dụng Luật An ninh Quốc gia, quyền tự trị của Hồng Kông từng được cam kết trong mô hình “một quốc gia, hai chế độ” đã bị gần như hoàn toàn xoá bỏ. Xu hướng toàn trị của chính quyền Trung Quốc không những ảnh hưởng trực tiếp đến số phận nghiệt ngã của Hồng Kông mà còn gián tiếp đến trào lưu dân chủ hoá của Việt Nam.
Ở New York, khoảng 2 triệu cử tri đã đi bỏ phiếu cho cuộc bầu cử thị trưởng lần này, cao nhất từ năm 1969, theo dữ liệu của NBC. Tất cả người dân hiểu được tầm quan trọng của lá phiếu lần này. Mười tháng qua, có vẻ họ hiểu được mức an toàn cuộc sống của họ ra sao, và sức mạnh của nền dân chủ hơn 200 năm của Hoa Kỳ đang lâm nguy như thế nào.
Mamdani không bán mộng. Anh bán khả thi. Và cử tri, sau nhiều lần bị dọa nạt, có vẻ đã chọn đúng thứ cần mua. Hy vọng, khi ấy, không phải lời hứa. Nó là hóa đơn thanh toán mỗi cuối tháng, nhẹ hơn một chút — và là bằng chứng rằng lý trí vẫn chưa bị bôi xóa.
Hiến pháp là văn bản pháp lý tối cao quy định các nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, xác lập thẩm quyền của các cơ quan công quyền, đồng thời quy định các chế độ kinh tế, văn hóa, xã hội và những quyền cơ bản của công dân. Tất cả các cơ quan nhà nước và công dân đều có nghĩa vụ tuân thủ Hiến pháp...
Trong bài phát biểu tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc ở New York hôm 23 tháng 9 năm 2025, Tổng Thống Hoa Kỳ Donald Trump đã nói rằng, “Biến đổi khí hậu, bất kể điều gì xảy ra, các bạn đã bị cuốn hút vào đó rồi. Không còn việc hâm nóng toàn cầu nữa, không còn chuyện toàn cầu lạnh cóng nữa. Tất cả những tiên đoán này được thực hiện bởi Liên Hiệp Quốc và nhiều tổ chức khác, thường là những lý do tồi và đều sai lầm. Chúng được tiên đoán bởi những kẻ ngu mà dĩ nhiên là số phận của đất nước họ và nếu tiếp tục thì những quốc gia đó không có cơ hội để thành công. Nếu các bạn không tránh xa khỏi trò lừa đảo xanh này thì đất nước của các bạn sẽ thất bại.” Đó là lời chứng rõ ràng được đưa ra trước cộng đồng quốc tế về quan điểm và hành động của chính phủ Trump chống lại các giá trị khoa học mà nhân loại đã, đang, và sẽ tiếp tục giữ gìn và thực hiện để làm cho cuộc sống ngày càng văn minh tiến bộ và hạnh phúc hơn.
Năm xưa, khi Benjamin Franklin rời khỏi Hội nghị Lập hiến năm 1787, một người phụ nữ hỏi ông: “Ngài Franklin, chúng ta có được chính thể gì, một nền quân chủ hay một nền cộng hòa?” Ông đáp: “Một nền cộng hòa, nếu các người còn giữ được nó.” Benjamin Franklin muốn nói, một nền cộng hòa, tức chính quyền của nhân dân, dựa trên luật pháp và trách nhiệm của người dân. Nền cộng hoà không tự bền vững, nó chỉ tồn tại nếu người dân có đủ phẩm hạnh, lý trí. Dân chủ không phải một thành quả, mà là thử thách liên tục. Câu nói ngắn gọn, đanh thép năm xưa của Franklin nay linh nghiệm, dưới thời Donald Trump.
Sáng nay, một post trên mạng xã hội của một người bạn làm tôi khựng lại: “Nếu không thích nước Mỹ, thì cuốn gói cút đi.” Câu đó khiến tôi nhớ về một buổi chiều hơn mười năm trước. Hôm ấy, nhóm bạn cũ ngồi quây quần, câu chuyện xoay về ký ức: Sài Gòn mất. Cha bị bắt. Mẹ ra tù. Chị em bị đuổi học, đuổi nhà. Và những chuyến tàu vượt biển không biết sống chết ra sao. Giữa lúc không khí chùng xuống, một người bạn mới quen buông giọng tỉnh bơ: “Các anh chị ra đi là vì không yêu tổ quốc. Không ai ép buộc dí súng bắt các anh chị xuống tàu cả.” Cả phòng sững sờ. Ở đây toàn người miền Nam, chỉ có chị ta là “ngoài ấy.” Vậy mà chị không hề nao núng. Ai đó nói chị “gan dạ.” Có người chua chát: “Hèn gì miền Nam mình thua.”
Trong cái se lạnh của trời Tháng Mười vào Thu, khi màu lá trên khắp nước Mỹ chuyển sang gam màu đỏ rực, vàng óng, thì một cơn bão đang âm ỉ sôi sục, len lỏi dưới bề mặt của cuộc sống người Mỹ. Gió càng thổi mạnh, cơn bão ấy sẽ càng nhanh chóng bùng nổ. Vỏn vẹn trong một tháng, nước Mỹ chứng kiến ba sự kiện chấn động, nức lòng những người đang dõi theo sự mong manh của nền Dân Chủ. Mỗi sự kiện diễn ra trong một đấu trường riêng của nó, nhưng đều dệt nên từ cùng một sợi chỉ của sự phản kháng kiên cường: bắt nguồn từ sự phỉ báng tính chính trực của quân đội; tước toạt thành trì độc lập, tự do của báo chí – ngôn luận; và những cú đánh tới tấp vào sức chịu đựng của người dân.
Hiểu một cách đơn giản, văn hoá là một khái niệm tổng quát để chỉ sự chung sống của tất cả mọi người trong cùng xã hội, bao gồm ngôn ngữ, phong tục tập quán, tôn giáo và luật pháp. Do đó, luật pháp là một thành tố trong toàn bộ các hoạt động văn hoá và có ảnh hưởng đến tiến trình phát triển xã hội, một vấn đề hiển nhiên...
Bất kỳ là ai, trẻ cũng như già, nữ cũng như nam, thật là tò mò, nếu chúng ta có thể biết được tương lai gần hoặc xa của mình, của người khác. Biết được tương lai là chuyện thú vị, hoặc căng thẳng, hoặc sôi nổi, hoặc sợ hãi. Ví dụ như bạn tiên đoán được ba tháng nữa sẽ gặp tai nạn hoặc cuối năm nay sẽ bị vợ ly dị. Nhưng có thể nào tiên đoán như vậy không? Làm gì có, chỉ là chuyện giả tưởng, chuyện phim ảnh và tiểu thuyết. Chuyện mấy bà phù thủy nhìn vào thau nước hoặc quả bóng kính trong thấy được chuyện mai sau, việc mấy ông thầy bói bấm tay nhâm độn, lật bài bói toán, v… v… chỉ thỏa mãn giấc mơ và tưởng tượng. Trong thực tế, chuyện đang xảy ra còn chưa giải quyết xong, nói chi chuyện ngày mai. Không đúng, nếu biết chuyện ngày mai thì chuyện hôm nay vô cùng dễ giải quyết. Ví dụ, “nếu biết rằng em sẽ lấy chồng, anh về lấy vợ thế là xong. Vợ anh không đẹp bằng em lắm, nhưng lấy cho anh đỡ lạnh lòng.” (Thơ vô danh). Thay vì cứ đeo đuổi hai ba năm sau, kéo dài buồn bã, đau khổ, để rồi “Lòn


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.