Hôm nay,  

“Phật tính” của người con gái Việt

1/31/202500:00:00(View: 2103)
BACOGAI
Minh họa: Đinh Cường
 
Mới đây một người bạn online gởi đến một video clip và bản chụp mấy trang trong cuốn Kỷ niệm sân khấu của MC Nguyễn Ngọc Ngạn, hỏi ý kiến tôi về cách ông này kiến giải thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước”. [1]
 
Trong clip -- cắt từ một sản phẩm Paris by Night -- ông Ngạn cho biết trong chương trình trước MC Nguyễn Cao Kỳ Duyên hỏi ông ý nghĩa của thành ngữ “Phận con gái mười hai bến nước” và lúc đó ông “đoán” ra hai điều: về vần, từ “gái” liền vần với “mười hai” và, về nghĩa, “số 12 trùng với 12 tuổi Tý, Sửu, Dần, Mẹo, Thìn, Tỵ, Ngọ, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.”
 
Ông Ngạn cho biết sau đó đã nhận rất nhiều phản hồi, trong đó đáng chú ý nhất là hai ý kiến, theo đó thì “mười hai bến nước” là:
-  “Công, Hầu, Khanh, Tướng, Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục”
và:
-  “Sĩ, Nông, Công, Thương, Nho, Y, Lý, Bốc, Ngư, Tiều, Canh, Mục”.
 
Rồi ông Ngạn trình bày rằng vấn đề này không thể khẳng định đúng sai như là một “định luật” khoa học mà thuộc về phạm trù “tư tưởng” và “khoa học nhân văn”: ông cùng cô Kỳ Duyên góp nhặt trong sách, mà trong sách thì cũng chưa chắc đúng và họ, thực ra, chỉ đưa lên như những “gợi ý” nhằm tạo ra một “nhịp cầu thông cảm”.
 
Nhưng “khoa học nhân văn” cũng là… khoa học: nếu không có những định luật bất di bất dịch thì cũng có logic của nó, mà xét về logic thì cái sai đã rành rành trong hai phản hồi trên.
 
Thứ nhất là “Công, Hầu, Khanh, Tướng”. Đây chỉ là cách nói chung chung về những vị trí cao quý trong xã hội thời xưa, như câu đối của Đặng Trần Thường khi trả thù Ngô Thì Nhậm “Ai công hầu, ai khanh tướng, vòng trần ai, ai dễ biết ai”. Nếu “Công” và “Hầu” là hai thứ bậc quý tộc thì “Khanh- Tướng” là phẩm trật quan lại trong triều, hai cặp này hoàn toàn không cùng một “phạm trù” với nhau. Nếu phân biệt thứ bậc quý tộc thì phải là “Công, Hầu, Bá, Tử, Nam”.

Thứ hai, cái sai trong lời đáp thứ hai thuộc về sự chồng chéo, thí dụ “Sĩ” cũng có thể là “Nho” v.v.
 
Sau đó, trong cuốn sách viết về đời hoạt động sân khấu, ông Ngạn đã dành ra mấy trang để mở rộng những ý trên với lời kết:
 
-  “Tóm lại, Mười Hai Bến Nước có thể không phải là Mười Hai Con Giáp như tôi phỏng đoán. Nhưng bảo rằng Mười Hai Bến Nước là Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục, Công, Hầu, Bá, Tử” thì muôn đời tôi không cho là hợp lý”.
 
Câu chuyện của ông Ngạn làm tôi nhớ lại đám cưới của ông anh họ ở quê vào cuối thập niên 1970, khi hai họ kháy nhau, móc họng nhau vì… “mười hai bến nước”. Đưa dâu đến nhà trai, một bà cô bên nhà gái đã cao hứng diễn… tuồng, quàng tay lên vai cô dâu mếu máo “phận con gái mười hai bến nước, không biết phận con rồi sẽ tới đâu” khiến đàng trai gai mắt và, cuối cùng, một người đã nổi cáu đứng lên:
 
-  “Thưa bà, bà nói vậy là có ý gì? Xin bà cho biết mười hai bến nước là những bến gì và cháu tôi thuộc về bến nào?”
 
Ông nói sang sảng khiến cả đám tiệc im bặt, hướng con mắt về bà cô đàng gái đang ngậm miệng, ú ớ, gắng gượng giải thích “bến trong, bến đục” nhưng vẫn không được tha:
 
- “Còn thiếu mười bến nữa, chúng tôi vẫn chưa biết cháu tôi là thứ bến nào, xin bà vui lòng nói rõ cho!”
 
Bà chịu thua, đầu hàng vô điều kiện. Sau đó, khi nhà gái ra về, còn đàng trai với nhau, có người nhắc lại, ông mới giải thích đó là “Công, Hầu, Bá, Tử, Nam, Sĩ, Nông, Công, Thương, Ngư, Tiều, Canh, Mục” khiến tôi, lúc đó mới có mười mấy tuổi, đã cảm thấy sai sai.
 
Sai bởi lời đáp trên lại dư, lên tới 13 mà vẫn thiếu. Thiếu bởi trên tước Công còn có tước Vương với những nhân vật lịch sử như An Sinh Vương (Trần Liễu), Hưng Đạo Vương, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, An Định Vương (Lê Phát An) v.v. Trong khi đó thì Nguyễn Trãi, lẽ thường, phải thuộc hạng “Sĩ” nhưng ông còn mang tước “Hầu”, là “Tế Văn Hầu”, nên xếp vào đâu? Chưa nói việc xã hội nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam thời xưa thì làm gì có sự chuyên môn hóa rõ ràng giữa giữa “Nông”, “Tiều”, “Canh”, “Mục”!
 
Nhưng chỉ nghĩ trong đầu vậy thôi, tôi không dám cãi với người có vai vế ngang với ông nội mình trong khi vẫn chưa tìm ra lời đáp xác đáng. Mãi sau này đọc nhiều, học hỏi thêm từ nhiều tác giả, mới thấy lời giải đáp hợp lý nhất là “Thập nhị nhân duyên”.
 
Đó là lời Phật dạy: “Vô minh, Hành, Thức, Danh Sắc, Lục Nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Lão tử”: “thập nhị nhân duyên” này chuyển mãi, từ “nhân duyên” này đến “nhân duyên” khác, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, nên chúng sanh mới chìm đắm mãi trong vòng luân hồi lẩn quẩn.
 
Nếu sự đời xoay vần quanh “thập nhị nhân duyên” thì đời con gái cũng vậy, cũng lòng vòng trong “mười hai bến nước”. Mà nếu phận gái Việt thể hiện… ‘Phật tính” như thế thì đó, xét cho cùng, cũng chỉ là một điểm nhỏ trong yếu tố mà sử gia Trần Quốc Vượng gọi là “Phật tính của tiếng Việt”, là điều mà tôi từng đề cập trên trang talawas, những 20 năm trước:
 
‘Thường, khi động đến chữ "hiếm" chúng ta ngụ ý cái gì đó ít ỏi, như "hiếm hoi", "hiếm khi", "hiếm có", "khan hiếm"; thế nhưng "hiếm mấy" lại là... nhiều. Tiếng Việt của chúng ta có... điên hay không?
 
Có người cho rằng nó không điên mà, thực ra, đầy... Phật tính. Liên quan đến Phật tính và cả cái sự nhiều, sử gia Trần Quốc Vượng, trong cuốn Trong Cõi, nói đến cụm từ "hằng hà sa số" hay, gọn hơn, "hằng sa số": chúng ta chỉ nghe, nói, và viết theo thói quen mà ít khi nghĩ đến gốc gác và những ý nghĩa sâu xa của nó.
 
Chữ "hằng" được viết thường nhưng, từ gốc gác, đó lại là Hằng, hay Hằng Hà, con sông vĩ đại và thiêng liêng của dân tộc Ấn, được nhắc tới trong kinh Lăng Nghiêm: "Khi ấy Bồ Tát Đại Huệ lại bạch đấng Thế Tôn: Trong kinh chép Đức Thế Tôn dạy rằng các đấng Như Lai, quá khứ, hiện tại và vị lai nhiều như cát sông Hằng..." "Hằng hà sa số" ngụ ý nhiều như cát sông Hằng, và như thế, sách Phật đã đi vào tiếng nói thường ngày của chúng ta.
 
Thế nhưng tấm áo cà sa không làm nên ông thầy tu và một điển cố vay mượn khó mà thể hiện đặc tính ở tiếng nói của một dân tộc. Nếu có cái gì đó gọi là "tính" của tiếng Việt, cái đó phải thể hiện ở những ý nghĩa thâm sâu hơn, mang tính triết học cao hơn, và ở một tầm mức mang tính khái quát hơn.
 
Aristotle từng nêu lên một tiền đề về luận lý học: đã là A thì không thể là phi-A trong khi sách Phật thì cho là sự đời sắc sắc không không, có đấy mà không đấy, không đấy mà có đấy, như là hình ảnh của bóng trăng nơi đáy nước:
 
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Tuồng như bóng nguyệt lòng sông
Nào ai mà biết có không bao giờ?
 
Tiếng Việt cơ hồ cũng sắc sắc không không như vậy. Cũng một thí dụ do sử gia Trần đưa ra: "bất" có nghĩa là không, nhưng chưa hẳn gắn "bất" vào từ ngữ nào cũng đều minh định sự.... không tồn tại của nó. Như, "bất thình lình" và "thình lình", chẳng hạn.
 
Bảo rằng một ứng cử viên "bất xứng" với sự tín nhiệm của cử tri, có nghĩa là kẻ đó không hề xứng đáng và chắc chắn sẽ không bao giờ đắc cử. Nói một cuộc khởi nghĩa "bất" thành, có nghĩa là cuộc khởi nghĩa đó đã bị thất bại, thất bại từ trong trứng nước hay chỉ sau mấy ngày đầu. Cứ thế: bất đồng ý kiến, nhân vật bất đồng chính kiến, luật bất thành văn, sự bất quá tam hay "Phi cao đẳng bất thành phu phụ" v.v.. Thế thì tại sao "bất thình lình" lại y hệt "thình lình"?
 
Suy diễn rộng ra sẽ thấy rằng tiếng Việt có khá nhiều hiện tượng "sắc sắc không không" như thế. Như "ấm" và "lạnh", chẳng hạn. Vào muà Đông, để chống chọi với cái lạnh, chúng ta có thể mặc "áo ấm" hay "áo lạnh" tùy ý, áo nào cũng tốt cả và cùng một nghĩa như nhau cả. Và như thế, nếu áp dụng máy móc phương pháp loại suy của toán học sơ cấp, hai chữ trái nghĩa nhau này đều có cùng một nghĩa như nhau hay sao?
 
"Tin" hoàn toàn trái nghĩa với "nghi"/"ngờ". Thế nhưng nếu hôm thứ Năm một cựu chính khách trả lời phỏng vấn: "Tôi tin rằng Tổng thống Bush sẽ thất bại trong cuộc tổng tuyển cử năm 2004!" thì ông ta cũng chẳng hề mâu thuẫn với mình khi, ngay từ hôm thứ Hai, đã dõng dạc tuyên bố: "Tôi nghi là Tổng thống Bush sẽ thất bại trong cuộc tranh cử năm 2004!.". Cũng máy móc áp dụng phương pháp loại suy thì, ở đây, "tin" và "nghi" lại cùng một nghĩa như nhau chăng?
 
Và nếu lội ngược thời gian một chút, vị chính khách trên cũng chẳng hề bất nhất khi, trong hai lần trả lời phỏng vấn, khi thì nói năm 2000 ông Bush đã "đánh thắng ông AlGore", khi thì nói "đánh bại ông AlGore": "thắng" và "bại", vốn ngược nhau như nước với lửa thì, ở ngay thí dụ này, lại cùng một nghĩa như nhau.
 
Tố Hữu viết: Ai vô đó với đồng bào đồng chí / Nói với nửa Việt Nam yêu quý và khi một người từ bắc đi vào nam, họ đã "vào trong Nam", còn khi đi theo hướng ngược lại thì lại là "ra ngoài Bắc" cho dù ông ta chẳng vượt qua ải Nam Quan hay cửa khẩu ở Móng Cáy để "ra bên ngoài Bắc bộ". Tương tự, một người có thể "vào trong Sài Gòn" và "ra ngoài Hà Nội", cho dù, trên thực tế thì "trong Sài Gòn" anh ta cũng có thể rong chơi ở Bến Lức, Biên Hoà và khi "ra ngoài Hà Nội" anh ta chỉ quanh quẩn ở mấy phố nội thành, Hồ Gươm hay đền Trấn Vũ chứ chẳng buồn đặt chân đến Việt Trì, Vĩnh Phú, những địa danh ở "ngoài Hà Nội". "Trong" và "ngoài", rồi "ra" và "vào/vô" như thế, áp dụng phép loại suy máy móc của toán học sơ cấp, cũng cùng một nghĩa như nhau: tiếng Việt sắc sắc không không quá đi chứ?” [2]
Không chỉ tiếng Việt mà cả sử Việt, với biến loạn “Thập nhị sứ quân”, theo sử gia Tạ Chí Đại Trường”, cũng xuất phát từ ý này. Thực tế lúc đó không chỉ có “12 sứ quân” và sự thể cũng là do người viết sử chịu ảnh hưởng Phật giáo:
 
Tạ Chí Đại Trường viết:
 
“ Số sứ quân hơn 12 đã có nhiều kẻ khác. Mà không phải họ không có thực lực so sánh với các nhóm được sử quan kể...Qua thiên tai thủy họa, bụi đất hằn học của con người trải dài hơn mười thế kỷ, ta còn đếm được 15,16 sứ quân. Vậy tại sao chỉ kể có 12?...Con số 12 là cố tình đếm vừa đủ cho hợp với một phạm trù nào đó của ý thức hệ đương thời. Con số 12 được gợi từ ý niệm ‘thập nhị nhân duyên’, ‘thập nhị duyên khởi’ của Phật Giáo. Chỉ vì người chép sử Đinh là một tăng lục, Ni sư Trương Ma, như ta đã thấy rõ nhiệm vụ thế tục giao cho bà.
 
[…] Quan niệm về Thập nhị nhân duyên ấy được thấy khắp các phái trong thế giới Phật giáo từ lục địa lan xuống hải đảo Đông Nam Á, và nằm trên các tấm vàng lá cùng những phần chú giải, tìm được ở Java. Tất nhiên, Đại Việt từ lúc khởi thủy du nhập vẫn không xa rời nó. Người Phật từ tâm niệm hàng ngày với ‘nghiệp’, với ‘nhân duyên’..., và điều đó đi vào tâm trí người tăng lục sử quan của triều Đinh, trở thành sự kiện lịch sử muôn đời cho dân Việt. Sứ quân, không cần đếm rõ bao nhiêu cho đến hết, được coi như là mười hai ‘nhân duyên’ gây ra khổ nạn cho dân chúng. Và việc dẹp tan sứ quân, là một Giải thoát, đã được thực hiện bởi người chủ tướng, vị hoàng đế đã đem lại ân đức cho Trương Ma, cho tôn giáo của Bà. Sự kiện lịch sử trần trụi đã được lồng vào ý thức hệ để tuyên dương cho ý thức hệ vậy.” [3]’
 
Như thế con số “thập nhị” chỉ mang tính tượng trưng, cũng như Đinh Tiên Hoàng, sau khi dẹp yên “12 sứ quân”, xưng danh là “Vạn Thắng Vương”. Vạn, như trong “vạn tuế”, là cái gì đó rất nhiều. Thắng chưa tới hai mươi sứ quân mà đôn lên thành.. mười ngàn nên, ở đây, con số cũng được thể hiện với ý nghĩa tượng trưng!
 
Nhưng tôi sẽ bỏ qua thắc mắc của anh bạn online, sẽ không bận tâm gì đến “phỏng đoán” của vị MC ăn khách để rồi bàn đến những điều xa xôi như thế nếu không có sự liên tưởng ngược từ mấy lời kết cảm động trong bài ký của Nguyễn Khải về “Người vợ” của Trần Dần, bà Bùi Thị Ngọc Khuê.
 
Đó là một phụ nữ mà, để nuôi sống gia đình đang bị chế độ rút phép thông công thì, bên ngoài, ngày ngày phải bê cái mẹp dép nhựa chạy tránh công an và, về nhà, để đánh lừa con mắt của cái gia đình suốt mấy chục năm trời không có lấy một bữa no, bữa nào cũng tính toán để dành cơm nguội lại cho nồi cơm kế tiếp, ghế một bát sẽ nở thành mấy bát…
 
Đó là một người vợ nhẫn nhục, cam chịu; Trần Dần kêu than bị chế độ “làm khó” nhưng lại “làm khó cho vợ cả trăm lần”. Thế nhưng, như một bà mẹ, thì cực kỳ quyết đoán, có thể nhân nhượng mọi chuyện với chồng trừ việc dạy con với “luật nhà” không thể xâm phạm, như một nhà “độc tài”. Bước ra ngoài, Trần Dần có thể tùy ý mắng chửi hay nói xấu bất cứ ai -- từ chính phủ, đến xã hội, bạn bè – nhưng về nhà tuyệt đối không được hé môi bởi sẽ ảnh hưởng đến con cái...
 
Bài ký được viết sau khi Nguyễn Khải chứng kiến một Trần Dần suy kiệt, không còn biết mình là ai, cũng không làm chủ được việc bài tiết của cơ thể mà những cực nhọc của việc chăm sóc được người vợ kể lại với nét mặt tươi tắn, bình thản:
 
“Chị đã quen với nhọc nhằn đến thế sao? Chả rõ văn thơ của ông bố, vẽ vời của ông con rồi ra sẽ có ích lợi gì cho đời, chuyện đó còn phải đợi. Nhưng hiển nhiên nếu không có những người vợ, những bà mẹ một đời nhẫn nhục gánh chịu mọi tai họa vì những người thân yêu thì thế giới này sẽ buồn thảm lắm, sẽ lạnh lẽo lắm”. [4]
 
Như thế, vượt lên trên những lắt léo ngôn ngữ, vượt lên trên những lý thuyết rắm rối của tôn giáo về sự trầm luân của kiếp người, đây mới là “Phật tính” ở những phụ nữ đáng được tạc tượng của chúng ta, những người mẹ, người chị, người vợ và người em trong những giai đoạn lịch sử không thể nghiệt ngã và đảo điên hơn:
 
Cô gái Việt Nam ơi!
Từ thuở sơ sinh lận đận rồi
Tôi biết tình cô u uất lắm
Xa nhau đành chỉ nhớ nhau thôi
[..]
Cô gái Việt Nam ơi!
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt Nam tươi
(“Cảm xúc”, Hồ Dzếnh)
 
Tài liệu tham khảo:
  1. https://www.facebook.com/watch/?v=1263335928184744
  2. https://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=126&rb=06
  3. Tạ Chí Đại Trường, (2004). Sử Việt đọc vài quyển, Văn Mới. California, trang 30-31
  4. Nguyễn Khải (2020), Một người Hà Nội, Nhà xuất bản Văn Học, trang 46-53

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Ông X. Nguyễn bị trục xuất vào sáng sớm của một ngày trong tháng Tư. Cuối ngày hôm đó, vào lúc 5 giờ chiều, cô K. Nguyễn bay về Sài Gòn. Cô đến phi trường Tân Sơn Nhứt sau chuyến bay trục xuất anh cô khoảng một ngày.“Khi đến Tân Sơn Nhứt, họ đưa anh tôi và mấy người bị trục xuất một lối đi đặc biệt để vào nơi làm thủ tục hải quan. Họ phỏng vấn, lăn tay, làm giấy tờ. Rồi họ đọc tên từng người, nếu có thân nhân, họ sẽ dắt ra cổng, bàn giao lại cho người nhà. Với ai không có thân nhân, nhưng có tên trong danh sách của Ba Lô Project (BLP) thì tình nguyện viên của nhóm sẽ nhận. BLP cho mỗi người một ba lô, trong đó có những vật dụng cá nhân cần thiết, một điện thoại có sim sẵn và $50”, cô K. kể.
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Kể từ khi Donald Trump tái đắc cử Tổng thống, giới sáng lập và đầu tư trong lĩnh vực công nghệ cao tại Thung lũng Silicon – gồm các tỷ phú như Elon Musk, Jeff Bezos và Mark Zuckerberg – đã được xem là những nhân vật có ảnh hưởng quan trọng đối với chính quyền mới. Họ xuất hiện trong lễ nhậm chức của Trump và nhanh chóng đóng vai trò chính trong việc định hình các chính sách "Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại". Với niềm tin mãnh liệt vào tiềm năng của công nghệ hiện đại, những nhà lãnh đạo này tin rằng họ có thể vận hành nó trong khuôn khổ một nền kinh tế thị trường tự do. Họ cổ súy cho sự phát triển không giới hạn của một hình thái tư bản tự do tuyệt đối và công nghệ có thể giải quyết hầu hết các vấn đề xã hội và quốc gia. Trong tầm nhìn của các cá nhân tiên phong công nghệ, họ muốn có vai trò lãnh đạo trong việc xóa bỏ các thủ tục hành chính phức tạp của nhà nước phúc lợi. Đó là hai điều kiện tiên quyết để tăng tốc cho các tiến bộ xã hội,
Ba giờ sáng của một ngày giữa Tháng Tư, cả hệ thống điện và điện thoại trong trại giam Adelanto Detention Center (California) đồng loạt bị ngắt. Bóng tối phủ trùm khắp các khu vực. Nhân viên trại giam đi từng khu vực, gõ cửa từng phòng, gọi tên “những người được chọn.” Mỗi phòng một, hoặc hai người bị gọi tên. “Thu xếp đồ đạc của các anh” – lệnh được truyền đi vắn tắt, không giải thích. Ông X. Nguyễn, cư dân của Santa Ana, đến Mỹ từ năm 1990, là một trong những người bị đánh thức được lệnh phải thu dọn đồ đạc.Cùng với những người khác - không ai biết ai vì tất cả đèn đã tắt, trong bóng tối họ bị áp tải ra khỏi trại giam trong tình trạng tay bị còng, chân bị xích. Chỉ đến khi bước vào chiếc xe bít bùng, họ mới nhận ra nhau qua cùng tiếng Mẹ đẻ, mới biết mình không đơn độc – mà cùng những người khác cùng ngôn ngữ, cùng cố hương, cùng một chuyến đi không có ngày trở lại. “Họ đưa anh tôi và những người trên xe đến tòa nhà INS (Immigration and Naturalization Service) ở Los Angeles.
Chuyện đời của Tổng thống Donald Trump như một cuốn sách, không phải tự truyện, không phải tiểu sử, là một trường thiên tiểu thuyết đang viết vào chương cuối cùng. Đã gọi là tiểu thuyết, nghĩa là không thật như đời thường, có nhiều diễn biến ly kỳ, bí mật và những âm thầm giấu giếm bên trong. Nhân vật chính là một người có đời sống phóng đảng từ trẻ đến già. Con nhà giàu, đẹp trai, học không giỏi. Bảy mươi mấy năm sống có thể gôm vào sáu chữ: Ham gái. Ham danh. Ham tiền. Ông không có khả năng gì đặc biệt, ngoài trừ khả năng bạo phổi, quen thói tỷ phú quyền lực, ít học, kém tư cách, ông muốn nói gì thì nói, muốn tuyên bố gì thì tuyên bố, bất kể đúng sai, bất kể hậu quả. Việc này khiến ông nổi bật giữa những kiểu mẫu đứng đắn, đạo hạnh, tử tế, trí thức của các nhà lãnh đạo Hoa Kỳ dọc theo lịch sử. Sự phá vỡ tư cách lãnh đạo theo truyền thống, lạ lùng, được một số đông cử tri ủng hộ.
Tôi có một đứa cháu gái. Mỗi sáng, cháu ngồi trên bậc thềm, chăm chỉ buộc dây giày. Mỗi bên phải đều nhau, mỗi nút thắt phải đúng thứ tự. Nếu lỡ tay thắt ngược, cháu sẽ gỡ ra và làm lại từ đầu – đôi khi ba, bốn lần. Cháu sẽ nhất định không chịu đi học cho đến khi nào giây thắt thật ngay ngắn. Cháu thuộc dạng trẻ em tự kỷ – một khác biệt mà người ngoài mới nhìn vào khó thấy. Và để được hỗ trợ trong lớp học, con bé phải làm điều mà cả hệ thống ép nó làm: thi IQ. Nếu điểm thấp quá, cháu bị đưa ra khỏi lớp chính. Nếu điểm “không thấp đủ,” cháu lại không được hỗ trợ vì không đạt tiêu chuẩn “khuyết tật.” Cùng một con số, khi là tấm thẻ vào cửa, khi là án lệnh đuổi ra khỏi cửa. Và chẳng ai thấy việc này có gì sai. Tất cả đều hợp lệ. Tất cả đều dựa vào một niềm tin: con người có thể đo được bằng ba con số.
Trong tháng 7 năm 2025, Thượng Viện Hoa Kỳ đã bỏ phiếu gần như hoàn toàn theo đường lối đảng phái để hủy bỏ khoản ngân sách trị giá 1.1 tỷ MK đã được chuẩn thuận cấp cho Tập Đoàn Phát Thanh Truyền Hình Công Cộng (Corporation for Public Broadcasting, CPB). Những người ủng hộ quyết định này cho rằng đây là hành động cần thiết để ngừng tài trợ cho “cánh truyền thông thiên tả.” “Phát thanh truyền hình công cộng đã rơi vào tay các nhà hoạt động đảng phái từ lâu rồi,” TNS Ted Cruz (Texas) tuyên bố, khẳng định chính phủ không cần thiết phải tài trợ cho các cơ quan báo chí “thiếu công tâm.” Ông châm biếm: “Muốn xem tuyên truyền của phe cấp tiến hả, cứ bật MSNBC đi.”
Tổng thống Donald Trump đã cố gắng áp đặt Hoa Kỳ lên thế giới và tách đất nước ra khỏi thế giới. Ông bắt đầu nhiệm kỳ thứ hai bằng cách vung vũ lực cứng của Mỹ, đe dọa Đan Mạch về quyền kiểm soát Greenland, và đề nghị sẽ giành lại kênh đào Panama. Ông đã sử dụng thành công các mối đe dọa về thuế quan trừng phạt để ép buộc Canada, Colombia và Mexico về các vấn đề nhập cư. Ông đã rút khỏi các hiệp định khí hậu Paris và Tổ chức Y tế Thế giới. Vào tháng 4, ông đã khiến thị trường toàn cầu rơi vào hỗn loạn bằng cách công bố thuế quan sâu rộng đối với các quốc gia trên toàn thế giới. Không lâu sau đó, ông đã thay đổi chiến thuật bằng cách rút lại hầu hết các mức thuế bổ sung, mặc dù vẫn tiếp tục gây sức ép cho một cuộc thương chiến với Trung Quốc – mặt trận chủ yếu trong cuộc tấn công hiện nay để chống lại đối thủ chính của Washington...
Tài liệu ghi chép lịch sử Tòa Bạch Ốc cho biết, khi nhân viên dưới thời chính quyền của Woodrow Wilson chuẩn bị dời vị trí của Vườn Hồng, họ nhìn thấy hồn ma của cố Đệ Nhất Phu Nhân Dolley Madison, phu nhân của cố Tổng thống đời thứ tư của Mỹ James Madison. Thế là, để “xoa dịu” bà Madison, họ quyết định không di dời nữa và Vườn Hồng ở nơi đó cho đến tận bây giờ. Ông Jeremiah Jerry Smith làm việc trong Toà Bạch Ốc dưới thời của chính quyền Tổng Thống Ulysses S. Grant vào cuối những năm 1860. Trong suốt 35 năm, ông là một người hầu, quản gia, đầu bếp, gác cửa, dọn dẹp văn phòng. Smith là người được các ký giả, người viết sách tìm đến khi họ muốn biết về tin tức hoặc chuyện hậu cung. Theo tài liệu lịch sử của White House, ông Smith nói từng nhìn thấy hồn ma của Lincoln, Grant, McKinley và một số đệ nhất phu nhân từ năm 1901 đến 1904.
Trong nhóm bạn bè khá thân, chúng tôi có một cặp bạn - anh chồng là người tốt bụng, dễ mến; anh yêu vợ, nhưng lại có tình ý với một người khác. Khi bạn bè nhắc, anh luôn trả lời chắc nịch: “Vợ tôi đơn giản lắm, bả ấy chẳng để ý, cũng chẳng hay biết gì đâu.”Cô vợ cũng là bạn tôi, một người hiền lành, tử tế. Khi nghe tiếng gần tiếng xa, bạn chỉ cười nhẹ nhàng: “Mình chẳng muốn biết, biết chi cho mệt, cứ nhắm mắt, rồi mọi chuyện cũng qua thôi.”
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.