Hôm nay,  

Tinh thần dân tộc và lòng yêu nước Việt Nam trong bối cảnh mới -- Một khảo hướng theo triết thuyết của Hegel và Habermas

30/05/202516:42:00(Xem: 502)

const


Việt Nam trong bối cảnh mới

 

Trong lịch sử cuộc chiến Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhân danh dân tộc để lãnh đạo toàn diện công cuộc đấu tranh giành độc lập và cuối cùng thống nhất đất nước vào năm 1975. Sau 50 năm, đất nước đang chuyển mình sang một kỷ nguyên mới và Đảng vẫn còn tiếp tục độc quyền quyết định vận mệnh cho dân tộc. Trong bối cảnh mới tất nhiên đất nước có nhiều triển vọng mới. Thực ra, từ lâu, đã có hai lập luận về vai trò của Đảng đã được thảo luận.

Lập luận thứ nhất cho rằng 50 năm lịch sử hào hùng đã chứng minh là Đảng có khả năng giải quyết các tất cả các vấn đề trọng đại của đất nước. Những thành tựu mới nhất về kinh tế là đáng kể, năm 2024 mức tăng trưởng đạt 7,09%, vượt chỉ tiêu 6,5-7%, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa đạt kỷ lục 405,53 tỉ đô la Mỹ, tăng 14,3% so với năm 2023.Thanh thế ngoại giao của Việt Nam ngày càng lan toả, thí dụ như hàn gắn vết thương chiến tranh với kẻ cựu thù Hoa Kỳ và nâng mối bang giao lên tầm cao mới với ý nghĩa đối tác chiến lược toàn diện. Với việc hợp tác mới nhất với Thái Lan, Việt Nam nâng được tổng số 13 quốc gia là đối tác chiến lược toàn diện.
 
Niềm tự hào về Đảng quang vinh làm cho mọi người dân thể hiện tinh thần đoàn kết dưới sự chỉ đạo của Đảng. Đảng có ý thức cao độ về sứ mệnh lịch sử và nhờ thế có thể kêu gọi toàn dân tham gia đấu tranh bảo vệ quốc gia để đạt được tình trạng tự chủ và hùng cường. Trong vị thế này, Đảng đương nhiên thay dân chúng để hành sử quyền dân tộc tự quyết mà không cần trưng cầu dân ý. Điểm quan trọng nhất trong lập luận này là vai trò của Đảng đã được khẳng định là “toàn diện, tuyệt đối” qua Điều 4 trong các bản Hiến pháp 1980, 1992 và 2013.
 
Tổng hợp các lập luận này, có thể kết luận rằng các thành tích về quân sự, kinh tế và ngoại giao là một minh chứng thiết thực về vai trò lãnh đạo của Đảng là sẽ tối cần thiết để bảo đảm đem lại cho tương lai đất nước được ngày càng ổn định và sẽ tốt đẹp hơn.
 
Lập luận thứ hai cho rằng, về mặt lý thuyết, hiện nay, Đảng không thể hô hào đấu tranh chuyên chính vô sản theo Xã hội chủ nghĩa (XHCH). Lập luận "Yêu nước ngày nay là yêu chủ nghĩa xã hội" chỉ còn đúng trong khuôn khổ tư tưởng của Đảng, nhưng xét theo thực tiễn đa chiều, thì không còn phù hợp, vì Đảng không thể tuyệt đối hoá lòng yêu nước của dân chúng với một hệ tư tưởng duy nhất. Thực tế cho thấy là một người dân bình thường cũng có thể có nhiều cách yêu nước thiết thực khác nhau và không nhất thiết phải tuyên xưng niềm tin vào XHCN.
 
Về cơ bản, nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCH tự bản chất là một quái thai giúp cho giới tư bản thân tộc lên ngôi thành một giai cấp bóc lột mới gây bao bất công cho xã hội. Đảng không thể thuyềt phục được việc vận hành cơ chế Kinh tế Thị trường và Nhà nước Pháp quyền theo định hướng XHCH và cũng công khai xác nhận là không thể hoàn thiện đường lối XHCN cho đến cuối thế kỷ XXI. Đảng cũng không đưa ra một lý thuyết nào khác hay hơn để áp dụng cho phù hợp với tình hình mới của đất nước.

Về mặt thực tế, các chính sách của Đảng đã gây bao thảm hoạ nghiêm trọng làm đất nước tụt hậu: tham nhũng lên ngôi, cạn kiệt môi sinh, suy đồi đạo đức, khủng hoảng giáo dục, vi phạm nhân quyền và bất ổn xã hội. Đảng không thể che dấu được các thất bại trong việc hoà giải và hoà hợp với người dân của hai miền, cũng như trong và ngoài nước. Độc tôn đảng quyền đã tạo nên cơ chế kiểm soát quyền lực hoạt động không hữu hiệu, hệ thống tư pháp không độc lập, sinh hoạt công quyền thiếu minh bạch và trách nhiệm giải trình là nguyên nhân chính.

Đảng phải nhận ra rằng mọi nhận thức về lịch sử vinh quang của một đất nước anh hùng cần được xét lại, thay vì tiếp tục độc quyền giải thích, mà thí dụ gần đây nhất là: … Chiến thắng 30/4 là chiến thắng của lương tri, của chính nghĩa, chấm dứt mất mát đau thương không chỉ cho nhân dân Việt Nam mà còn biết bao gia đình người dân Mỹ…”. Lương tri ở đây là của ai? Quyết định bỏ cuộc của phe tháo chạy, bất lực của phe thua cuộc hay tận dụng tình thế thực tiển của phe thắng cuộc là lương tri? Khi lịch sử lắng đọng, người hậu thế sẽ bình tâm nhìn lại vị thế của các phe tham chiến trong từng giai đoạn, nhờ thế mà hy vọng là khả năng nhận thức về gọng kiềm lịch sử đất nước sẽ được toàn diện hơn.

Do đó, ý kiến này cho rằng, trong chiều hướng minh bạch và trách nhiệm và để phát huy tính dân tộc và lòng yêu nước Việt Nam trong thời kỳ mới, Đảng nên tiến hành một cuộc cải cách chính trị toàn diện, một nhu cầu bức thiết hơn bao giờ hết.

Hai cuộc tranh luận này sẽ không có hồi kết thúc. Đã đến lúc Đảng và dân chúng phải chuyển đề tài thảo luận sang hai nội dung mới, Một là, Đảng có cần tái khẳng định nội dung tinh thần dân tộc dựa theo truyền thống đấu tranh mà độc quyền lãnh đạo không hay nên dựa theo khuôn khổ nhà nước pháp quyền và nền dân chủ hiện đại thực chất. Hai là, biện minh cho tính chính danh và dân chủ của Đảng quyền và quyền dân tộc tự quyết có nên là hai vấn đề cần được thảo luận chuyên biệt không. Đảng và dân tộc có phải là hai thực thể hay là một, ai sẽ là một nguồn cảm hứng ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của đất nước trong giai đoạn mới.

Thực ra, khái niệm tinh thần dân tộc có nội dung sâu xa từ triết học phương Tây hơn là thực tế chính trị của Việt Nam, mà triết thuyết cuả Hegel là thí dụ chính.  

Quan điểm của Hegel về
tinh thần dân tộc

Trong lịch sử triết học chính trị phương Tây, triết gia Georg Wilhelm Friedrich Hegel (1770 – 1831) đã triển khai khái niệm về tinh thần dân tộc (Volksgeist) trong tác phẩm Hiện tượng học tinh thần (Phänomelogie des Geites).

Theo Hegel, tinh thần dân tộc đóng vai trò chính trong việc hình thành và phát triển quốc gia, một biểu hiện ý thức chung bao gồm các giá trị thuộc về truyền thống văn hóa, ngôn ngữ, phong tục, pháp luật và lịch sử của dân tộc. Mỗi dân tộc đều có một sứ mệnh lịch sử riêng và tinh thần dân tộc sẽ là nguồn động lực giúp cho dân tộc thực hiện sứ mệnh được giao phó. Người dân tự hào về bản sắc dân tộc sẽ tạo ra tinh thần đoàn kết và thực hiện vai trò trách nhiệm cho sự tiến bộ trong ý thức về tự do theo tiến trình lịch sử của quốc gia và quốc tế.

Nhìn chung, có hai điểm chính, một là, nhà nước là hiện thân tối cao của tinh thần dân tộc, phản ánh bản sắc và đạo đức của dân tộc. Hai là, tinh thần dân tộc không phải là một chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, mà là một phần trong tiến trình phổ quát của tinh thần tự do, cùng các dân tộc khác góp phần vào sự phát triển chung của nhân loại.

Tinh thần dân tộc đã được thể hiện qua nhiều cuộc cách mạng trên thế giới, thí dụ như:
  1.  Cách mạng Mỹ (1775-1783): Người Mỹ đã đấu tranh giành độc lập từ người Anh dưới khẩu hiệu "Không có đóng thuế mà không có quyền đại diện" và chiến đấu để thành lập một quốc gia tự do và độc lập.
  2. Cách mạng Pháp (1789-1799): Người Pháp đã lật đổ chế độ quân chủ, thiết lập nền cộng hòa với khẩu hiệu "Tự do, Bình đẳng, Bác ái" và đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc Pháp.
  3. Phong trào Độc lập Ấn Độ (1857-1947): Người Ấn Độ đã đấu tranh giành độc lập từ Anh bằng phương pháp đấu tranh bất bạo động, và cuối cùng đã giành được độc lập vào năm 1947.

Khả năng du nhập tư tưởng của Hegel

Liệu việc du nhập tư tưởng của Hegel về tinh thần dân tộc có thể biện minh cho vai trò Đảng quyền ở Việt Nam không, vấn đề này có cần thiết không. Khi Đảng biết dựa vào Hiến pháp hiện nay và kết hợp với nội dung triết thuyết của Hegel, may ra, Đảng sẽ có thêm một lập luận sắc bén với một giá trị nhất định trong việc tái định hình bản sắc chính trị cho Việt Nam.
Nội dung của Hiến pháp năm 2013 thể hiện không chỉ là một công cụ pháp lý chung mà còn có quy định về sự phát triển tinh thần dân tộc mà một số ví dụ tiêu biểu như:
  1. Điều 65: "Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân. Công dân phải làm tròn nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân."
  2. Điều 70: "Nhà nước bảo vệ và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc."
  3. Điều 75: "Nhà nước bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân; bảo vệ các cơ sở tôn giáo hợp pháp."

Dù tinh thần dân tộc là những điều khoản hiến định như trên, nhưng liệu nội dung này có đích thực phát huy tác dụng trong thực tế không, vấn đề ở đây là liệu Hiến pháp trong toàn diện có giá trị tự tại tuyệt đối không. Câu trả lời là không.

Dù trên lý thuyết là đạo luật tối cao, nhưng trong thực tế, Hiến pháp đóng vai trò thể chế hóa và hợp pháp hóa các cương lĩnh của Đảng, một công cụ pháp lý hóa sự lãnh đạo toàn diện của Đảng; do đó, Việt Nam không có một bản hiến pháp theo chuẩn mực dân chủ - pháp quyền hiện đại, nơi mà Hiến pháp đứng trên tất cả, kể cả Đảng.

Một hiến pháp thực sự có giá trị tự tại phải là một khế ước giữa nhân dân và nhà nước, có quy định ranh giới quyền lực của nhân dân và chính quyền và là nền tảng của một nhà nước pháp quyền dân chủ.

Thực tế ngược lại. Từ khi thành lập nước năm 1945, Quốc hội đã ban hành 5 bản Hiến pháp. nhưng chưa từng có một bản Hiến pháp nào là đích thực đúng nghĩa, mà chỉ là một bản sao nghị quyết của Đảng khi tình hình thay đổi. Điển hình là Điều 4 Hiến pháp 2013 có quy định về vai trò lãnh đạo của Đảng và mọi hoạt động của Đảng và Đảng viên nằm trong khuổn khổ của Hiến pháp và luật pháp. Vì ngay trong Điều lệ Đảng cũng không qui định việc Đảng phải hoạt động như thế nào để được xem là trong khuôn khổ hiến pháp và luật pháp; do đó, Đảng không bị ràng buộc và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Nhưng với Hiến pháp hiện tại còn có nhiều khiếm khuyết khác là không quy định Tòa Bảo hiến độc lập, Quốc hội không thực sự là cơ quan lập pháp độc lập, mà là “cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng.”. Hầu hết các nội dung luật pháp đều đi sau hoặc rập khuôn theo Nghị quyết của Đảng, trong khi Đảng đứng trên và đứng ngoài luật pháp, nghĩa là, Hiến pháp không thể phát được huy tinh thần dân tộc đúng nghĩa của Hegel.

Tuy nhiên, giá trị áp dụng của Hiến pháp 2013 trong thực tế không là vấn đề chính, mà quan trọng hơn là triết thuyết Hegel có giá trị thuyết phục để làm cơ sở để du nhập vào Việt Nam được không. Có hai điểm tranh luận tiêu biểu.

Lập luận thứ nhất cho là Hegel đại diện cho một kiểu tư duy truyền thống và lịch sử luận, nơi mà tinh thần dân tộc được gắn chặt với bản sắc nhà nước và đạo đức dân tộc đặc thù. Lòng yêu nước là sự đồng nhất giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc qua nhà nước. Hegel đề cao nhà nước như hiện thân tối cao của tinh thần dân tộc, điều này xem ra là phù hợp với quan niệm chính trị của Đảng khi Điều 4 – Hiến pháp 2013 quy định Đảng là lực lượng lãnh đạo toàn diện. Việc xây dựng bản sắc dân tộc gắn với truyền thống lịch sử, đạo đức tập thể và lý tưởng thống nhất là điều mà hệ thống chính trị Việt Nam rất coi trọng. Do đó, nếu chỉ xét về hình thức, tinh thần dân tộc kiểu Hegel có thể dể được chấp nhận như là một công cụ để Đảng tiếp tục củng cố tính chính thống về chính trị.

Lập luận thứ hai nhấn mạnh là Hegel trình bày khái niệm này trong bối cảnh nhà nước Đức trong thế kỷ XIX và với logic phát triển theo tiến trình tự do; do đó, cần phân biệt giữa nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat) và chế độ quân chủ lập hiến (konstitutionelle Monarchie) trong triết học Hegel trong thời kỳ này.

Trong tác phẩm "Các nguyên lý của triết học pháp quyền" (Grundlinien der Philosophie des Rechts), Hegel mô tả nhà nước như là hiện thân của ý chí phổ quát, nghĩa là thể hiện tinh thần tự do. Nhà nước là biểu hiện cao nhất của tinh thần khách quan và không đơn thuần là một công cụ để duy trì trật tự công cộng, mà là một hình thức của tự do được thể chế hóa thông qua pháp luật, đạo đức và các định chế xã hội.

Do đó, mới thoạt nhìn, có thể cho rằng Hegel ủng hộ cho nhà nước pháp quyền (Rechtsstaat), nơi mà luật pháp là biểu hiện của lý tính và ý nghĩa tự do được thực hiện thông qua tinh thần thượng tôn luật pháp.Tuy nhiên, khi đi sâu vào nội dung khái niệm nhà nước pháp quyền của Hegel, nó lại không giống với thời nay, vốn nhấn mạnh đến tam quyền phân lập và giới hạn quyền lực nhà nước thông qua hiến pháp.

Trong bối cảnh trước đây, Hegel ủng hộ một nhà nước quân chủ lập hiến (konstitutionelle Monarchie), nghĩa là không theo khuôn khổ dân chủ đại nghị (parlamentarische Demokratie) ngày nay. Theo Hegel, nhà vua là biểu tượng của sự thống nhất quốc gia, phê chuẩn pháp luật nhưng không tham gia tích cực vào quá trình lập pháp hay hành pháp. Quyền lực được chia giữa nhà vua, cơ quan hành pháp (chính phủ) và quốc hội (đại diện giai cấp xã hội). Tuy có sự phân công, nhưng không phải là tam quyền phân lập như của Montesquieu hay các nền dân chủ hiện đại.

Tóm lại, lập luận thứ hai chỉ ra rằng khả năng du nhập tư tưởng của Hegel vào hoàn cảnh của Việt Nam bị hạn chế. Lý do chính là vì Đảng không thể trích dẫn một vài phân đoạn trong triết thuyết của Hegel về tinh thần dân tộc để biện minh cho tình trạng độc tôn Đảng quyền, việc làm này, nếu có, cũng chỉ làm bóp méo tư tưởng nguyên thuỷ của Hegel.

Nếu Đảng chỉ nhấn mạnh đến việc duy trì độc tôn Đảng quyền mà không theo đuổi chủ trương đi đến đích cuối cùng là tinh thần tiến bộ trong ý thức về tự do và không nêu cao tính phổ quát của ý nghĩa tự do trong tiến trình lịch sử, thì hậu quả chỉ còn là đưa tới việc loại trừ tinh thần tôn trọng sự khác biệt và ngăn cản tiến trình dân chủ hoá, đó là một hình thức khác của chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi.

Lý do quan trọng nhất trong hoàn cảnh hiện nay là Việt Nam đang chuyển mình trong một xã hội ngày càng đa dạng, với các yêu cầu về phát triển minh bạch, pháp quyền và hội nhập quốc tế. Do đó, áp dụng tư tưởng của Hegel là không phù hợp vì sẽ không định hướng được mối quan hệ giữa công dân – nhà nước – dân tộc; ngược lại, trong lịch sử tư tưởng chính trị tại châu Âu hiện nay  lòng yêu nước của người dân dựa trên các nguyên tắc của Hiến pháp dân chủ được coi là khái niệm chính yếu mà triết thuyết của Habermas là tiêu biểu.

Quan điểm của
Jürgen Habermas về lòng yêu nước lập hiến

Triết gia Đức Dolf Sternberger phát hiện đầu tiên khái niệm“lòng yêu nước lập hiến” (Verfassungspatriotismus). Dựa trên một câu trích dẫn của Jean de la Bruyères: "Không có tổ quốc nào trong chế độ chuyên chế", Sternberger lập luận là tổ quốc không xứng đáng có lòng trung thành mù quáng. Tổ quốc chỉ có thể yêu cầu dân chúng chấp nhận nếu tổ quốc bảo đảm tự do và quyền của họ, chỉ có một hiến pháp dân sự có thể là một hiến pháp yêu nước. Triết gia Jürgen Habermas đào sâu khái niệm này trong nhiều luận phẩm và nổi bật nhất là Die postnationale Konstellation. Politische Essays 1998. Habermas nổi danh khi giải thích tại sao các xã hội đa nguyên hiện đại cần có một lòng yêu nước khác, "không độc quyền" và nó lại có vai trò đặc biệt quan trọng đối với châu Âu và Đức trong thời hậu chiến.

Theo Habermas có nhiều lý do. Nước Đức thời hậu chiến không còn có thể dựa vào niềm tự hào dân tộc như trước, vì lịch sử đã bị hoen ố bởi chủ nghĩa Đức Quốc Xã. Người dân nên xây dựng lại bản sắc chính trị mà không cần phụ thuộc vào chủ nghĩa dân tộc. Mô hình mới này sẽ giúp cho người dân đoàn kết trong một xã hội dân chủ, đa văn hóa và hiện đại, nơi mà các cộng đồng, dù khác nhau về nguồn gốc, vẫn chia sẻ các giá trị hiến định.

Theo chiều hướng này, lòng yêu nước sẽ có một nội dung mới: không tôn sùng chủ nghĩa dân tộc, bản sắc dân tộc, chủng tộc, hay văn hóa đặc thù, mà phải dựa trên sự cam kết và xây dựng các nguyên tắc phổ quát được thể hiện trong Hiến pháp dân chủ như tự do, bình đẳng, pháp quyền, nhân quyền và đối thoại dân sự. Đây là hình thức yêu nước mang tính lý trí và dựa trên sự đồng thuận về các giá trị dân chủ đã được thể chế hóa.

Habemas định nghĩa lại lòng yêu nước không chỉ bằng cảm xúc hay biểu tượng, mà bằng ý thức công dân, sự tôn trọng luật pháp, quyền con người và trách nhiệm xã hội. Việc thay đổi nhận thức này mang tính xây dựng, bền vững và hiện đại trong một xã hội đang tăng dần mức độ trong tiến trình đô thị hóa và toàn cầu hoá.

Đặc điểm của khái niệm này là tập trung trong việc cải thiện thể chế, xây dựng niềm tin và lòng trung thành với các định chế dân chủ và luật pháp, đề cao vai trò phản biện, cho phép việc phê phán đất nước trong tinh thần xây dựng khi những giá trị hiến định bị vi phạm; cuối cùng, nhờ thế mà mô hình này sẽ xây dựng lại bản sắc dân tộc Đức và châu Âu.

Tóm lại, theo Habermas, một hệ thống chính trị dân chủ có thể tạo ra sự đoàn kết công dân thông qua cam kết với Hiến pháp và các nguyên tắc Hiền định.

Khả năng du nhập tư tưởng của Habermas

Triết thuyết của Habemas đề ra tại Đức đã gây ảnh hưởng sâu đậm tại các nước trong châu Âu, nhất là tại Anh và Tây Ban Nha. Luận đề cũng được các triết gia tại Hoa Kỳ và Nam Phi tìm hiểu để áp dụng. Liệu có nên đưa quan điểm của Habermas vào bối cảnh Việt Nam thời nay không, có lẽ đó cũng là một vấn đề mới cần được thảo luận. Câu trả lời là khả thi vì Hiến pháp Việt Nam cũng có quy định các vấn đề tương tự này.

Hiến pháp 2013 có quy định các nguyên tắc dân chủ phổ quát, bao gồm Nhân quyền và quyền công dân (Chương II): tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền biểu đạt, quyền lập hội…, Nguyên tắc pháp quyền: "Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.", Quyền lực thuộc về nhân dân, thông qua Quốc hội và chính quyền các cấp.

Như vậy, xét về mặt hình thức, Việt Nam có nền tảng pháp lý để hình thành một lòng yêu nước lập hiến, nơi người dân được kỳ vọng không chỉ có lòng yêu nước vì truyền thống lịch sử, mà còn vì những giá trị pháp lý và chính trị được ghi nhận trong Hiến pháp. Do đó, Việt Nam có thể xây dựng lòng yêu nước dựa trên Hiến pháp của Habermas. Thực ra, nếu xét về nội dung, có hai trở lực chính:

Một là Hiến pháp không có giá trị tự tại tuyệt đối vì Đảng quyền còn tiếp tục độc tôn và nền giáo dục công dân còn tiếp tục lạc lối.

Điều 4 Hiến pháp năm 2013 khẳng định vai trò lãnh đạo toàn diện và tuyệt đối của Đảng. Điều này dẫn đến việc quyền lực nhà nước bị tập trung, thiếu cơ chế giám sát độc lập. Ngược lại, việc áp dụng khái niệm của Habermas đòi hỏi phải có sự phân quyền và cơ chế kiểm soát quyền lực, do đó, trong môi trường chính trị hiện tại sẽ gặp khó khăn. Việc người dân bị cấm thảo luận về Điều 4, quyền biểu tình, tự do ngôn luận và tam quyền phân lập hầu như không cần phải tranh luận thêm là tại sao lại có tình trạng như vậy.

Cơ chế giải trình, đối thoại, phản biện là một đặc điểm trong triết thuyết của Habermas, nhưng Đảng công khai chủ trương là: “Tăng cường công tác đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch, thông tin xấu, độc hại trên không gian mạn liên quan đến việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013. Toàn bộ vấn đề là người dân cần nên biết là phải làm gì để thoát ra khỏi vòng luẩn quẩn này.

Hai là vấn đề "dân trí" hay "ý thức chính trị" của người dân. Nền giáo dục công dân hiện nay chủ yếu tập trung vào việc giáo dục lòng yêu nước nồng nàn thông qua truyền thống lịch sử, ít chú trọng đến việc phát triển ý thức pháp lý và trách nhiệm công dân. Tình trạng này là do thiếu giáo dục chính trị, thiếu thông tin, thờ ơ và mất niềm tin và quan trọng nhất là áp lực kinh tế trong đời sống gia đình hằng ngày. Do đó, khái niệm yêu nước lập hiến của Habermas còn xa lạ và khó được người dân tiếp nhận.

Trước mắt, việc du nhập khái niệm Habermas là không khả thi, nhưng trong dài hạn xem ra là một triển vọng. Nhưng để chuẩn bị, điểm chính xác ở đây vẫn còn là vòng lẩn quẩn giữa lòng dân và ý Đảng, tuy hai mà một và tuy một mà hai, có gặp nhau không để giải quyết, đó là vấn đề cuối cùng.

Một là ý Đảng. Đảng muốn tiếp tục cầm quyền là chuyện dể hiểu, nhưng có đủ thành tâm và thiện chí để thực hiện những cải cách chính trị để góp phần vào việc xây dựng một xã hội dân chủ, pháp quyền và hiện đại theo khái niệm của Habermas không. Việc cần làm trước mắt là hướng tới tình trạng phân quyền và tăng cường cơ chế giám sát độc lập, đổi mới nền giáo dục công dân, tập trung vào việc phát triển ý thức pháp lý, trách nhiệm công dân, khả năng phản biện xã hội để xây dựng bản sắc dân tộc hiện đại. Thời thế đổi thay, Đảng cũng nên nhận ra là vũ khí của Đảng hôm nay không còn là sử dụng bạo lực cách mạng mà là lập luận của lý trí dựa trên khái niệm pháp luật để thuyết phục dân chúng trên cơ sở hợp tác và đối thoại, một hình thức mới mà Đảng tự khai sáng và vận dụng.

Hai là lòng dân. Người dân đang nghĩ gì và muốn gì? Không ai có thể suy đoán được là chừng nào mà người dân có ý thức về quyền dân tộc tự quyết và tinh thần quyết tâm thực hiện. Việt Nam đang thiếu một bối cảnh thích hợp cho việc nâng cao dân trí để nhận ra một chân lý mới: Đảng không còn là người đầy tớ của nhân dân và đại biểu trung thành của giai cấp công nhân. Thành tích của Đảng không phải là khái niệm về pháp luật. Dân chúng phải thể hiện việc đồng thuận về hình thức cai trị của Đảng trong khuôn khổ của một cuộc trưng cầu dân ý; nhờ thế, tính chính danh của Đảng được hình thành trong khuôn khổ của một nhà nước pháp quyền tân lập.

Kết luận

Đất nước đang chuyển mình, Đảng và dân chúng phải thừa nhận là đang có một nhu cầu khẩn thiết: Việt Nam chưa có Hiến pháp đúng nghĩa và đang cần có một bản Hiến pháp mới, một khế ước nguyên thủy theo ý nghĩa cao đẹp nhất của hợp đồng nguyên thủy (contractus originarius) theo lý thuyết luật Hiến pháp, nó chứng tỏ được những tinh hoa của dân tộc đáng cho thế hệ hôm nay tự hào và cho thế hệ mai sau kế thừa.

Như Rousseau đã từng khẳng định chính xác là hành động sáng lập này đòi hỏi "ít nhất một lần, nhất trí, chỉ có một luật, về bản chất của nó, đòi hỏi sự đồng ý nhất trí; đó là khế ước xã hội". Nhờ có được "hợp đồng nguyên thủy" thì chính quyền và dân chúng sẽ tự đặt mình trong khuôn khổ của Hiến pháp để giải quyết các vấn đề chung sống.

Hiện nay, việc áp dụng tư tưởng của Habermas, dù có nhiều hạn chế, phần nào xem ra là phù hợp trong lâu dài.  

Với lòng yêu nước hiến định theo triết thuyết của Habermas, Việt Nam có thể tái khẳng định tinh thần dân tộc trên nền tảng nhà nước pháp quyền và tinh thần dân chủ thực chất. Với trách nhiệm công dân theo Hiến pháp, Habermas tạo ra một mô hình yêu nước hiện đại đầy bản sắc. Việc cải cách giáo dục công dân theo hướng phản biện trong khuôn khổ tôn trọng dân chủ và pháp luật sẽ làm một nền tảng phù hợp cho việc du nhập tư tưởng Habermas.

Dù có muốn du nhập triết thuyết của Habermas hay không, tinh thần dân tộc và lòng yêu nước Việt Nam trong thời kỳ mới tuỳ thuộc vào hai yếu tố là lòng dân và ý Đảng, cả hai có thể gặp nhau trong chừng mực nào, tất cả tuỳ thuộc vào điều kiện là Đảng có thực tâm cải cách chính trị trong khuôn khổ nhà nước pháp quyền không và toàn dân có muốn và đủ nội lực để tự thể hiện lòng yêu nước hiến định không, hai triển vọng này vượt qua khuôn khổ của bài viết này. 
 
–  Đỗ Kim Thêm
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
Lịch sử là sự lập lại, nhìn ngược về thời gian: Sau khi Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Quốc vào năm 211 (trước Công Nguyên) Ông đã nghe lời vị Tể Tướng Lý Tư đốt tất cả các ghi chép của Sử Gia không thuộc nước Tần, kể cả Kinh Thi. Bất cứ ai thảo luận về Kinh Thi và Kinh Thư sẽ bị xử tử. Trong Sử Ký của Tư Mã Thiên, vụ đốt sách chôn Nho được gọi là “Phần thư khanh nho”, bao gồm việc đốt sách và chôn sống hơn 460 học giả. (1) Năm 1958, Mao Trạch Đông đã liên hệ bản thân ông với Tần Thuỷ Hoàng. Khi ông ta chôn sống 460 học giả ông nói trong một bài phát biểu với các đồng chí của mình: “Các bạn (những nhà trí thức) căm ghét chúng tôi, coi chúng tôi là những Tần Thuỷ Hoàng. Các bạn nhầm rồi. Chúng tôi thậm chí còn vượt Tần Thuỷ Hoàng một trăm lần”.(2) Năm 1975 khi CS miền Bắc, chiếm Việt Nam Cộng Hòa, phong trào đốt sách cũng xảy ra ngay tại miền Nam, Việt Nam. Hàng trăm cuốn sách được người Cộng Hòa mang đi giấu hay mang ra nước ngoài và hàng ngàn cuốn sách bị đố
Hai tháng đã trôi qua. Trên những diễn đàn mạng xã hội và cả trong những cuộc đối thoại đời thường, rất nhiều người thổ lộ về một thói quen vừa xuất hiện: đếm xem còn bao nhiêu ngày nữa kết thúc nhiệm kỳ bốn năm của chính quyền hiện tại. “Đếm thời gian trôi” vốn không phải là một thói quen tích cực trong đời sống. Nó phản chiếu tâm trạng chán nản, buông xuôi, thậm chí là sợ hãi. Hàng loạt câu hỏi “Chúng ta phải làm gì?”; “Rồi chuyện gì nữa?”; “Chúng ta đang sống ở thời đại nào?”… Trong đó, câu hỏi lớn nhất, và biểu lộ sự phẫn nộ của người dân nhất, đó là: “Đảng Dân Chủ đang làm gì?”
Người tị nạn đã không còn được chào đón tại Hoa Kỳ kể từ ngày đầu tiên trong nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Donald Trump. Ngay trong ngày nhậm chức 20 tháng 1 năm 2025, ông đã ký một sắc lệnh hành pháp đình chỉ Chương trình Tiếp nhận Người tị nạn của Hoa Kỳ (U.S. Refugee Admissions Program, USRAP) trong vòng 90 ngày. Dù vào tháng 2 năm 2025, tòa án liên bang đã ra phán quyết yêu cầu khôi phục chương trình tái định cư người tị nạn, chính quyền Trump vẫn khẳng định rằng không thể thực hiện điều đó ngay lập tức, do hệ thống tiếp nhận người tị nạn đã bị giải thể gần như toàn bộ.
Trong bài diễn văn dài 90 phút trước Quốc hội Hoa Kỳ, Donald Trump nhắc lại tham vọng “giành lấy” Greenland “bằng cách này hay cách khác.” Trump tuyên bố rằng Greenland có ý nghĩa “sống còn đối với an ninh quốc gia” của Hoa Kỳ. Dù nhấn mạnh rằng chính phủ của mình “hoàn toàn ủng hộ quyền tự quyết của Greenland,” ông vẫn không quên mời gọi “nếu các bạn đổi ý, chúng tôi sẵn sàng chào đón các bạn gia nhập Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ.”
Khi Ukraine từ bỏ kho vũ khí nguyên tử và tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT Nuclear Nonproliferation Treaty) với tư cách là một quốc gia phi hạt nhân vào năm 1994, họ đã thi hành một phần của Bản ghi nhớ Budapest (Budapest Memorandum), gồm một số các đảm bảo an ninh bởi Nga, Hoa Kỳ và Vương quốc Anh. Những đảm bảo này nhằm bảo vệ chủ quyền của Kyiv, và biên giới của họ sẽ được tôn trọng. Nhưng khi Nga sáp nhập Crimea vào năm 2014 và tiến hành cuộc xâm lược toàn diện vào năm 2022, những cam kết đó đã chứng tỏ là vô nghĩa. Ukraine thấy mình đơn độc, sự sống còn phụ thuộc vào thiện chí của phương Tây và nằm trong tay một kẻ thù được trang bị bằng chính những vũ khí mà Kyiv đã giao nộp. Những tác động này không dừng tại Ukraine mà lan rộng. Trên toàn cầu, các chính phủ đang đánh giá lại ý nghĩa thực sự của các bảo đảm an ninh.
Trong thế giới đấu tranh sinh tồn của loài vật, chuyện cá lớn nuốt cá bé là điều không thể tránh khỏi. Nhưng trong xã hội loài người ngày nay dù đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba hơn hai thập niên và được mệnh danh là thời đại văn minh tiến bộ vượt bực vẫn không thiếu chuyện kẻ mạnh ăn hiếp người yếu trong mối quan hệ giữa người với người. Tình trạng mạnh hiếp yếu còn diễn ra khốc liệt hơn trong mối quan hệ ở cấp quốc gia: nước lớn bắt nạt hay xâm lăng nước nhỏ. Ở đây cũng xin giải thích một chút về cách dùng chữ nhược tiểu trong tiêu đề của bài viết này. Chữ nhược tiểu dùng trong bài này hoàn toàn không có ý nghĩa đánh giá tiêu cực về quốc gia được đề cập đến. Chữ nhược tiểu dùng trong bài này là để chỉ cho sự yếu kém về quân sự và kinh tế so với những nước mạnh về quân sự và kinh tế đi xâm lược. Sự yếu kém về quân sự và kinh tế không đồng nghĩa với sự yếu kém về quyết tâm và đồng lòng bảo vệ đất nước của quốc gia bị xâm lược. Ngược lại, cuộc chiến tại Ukraine hiện nay và Việt Nam
Trong lịch sử thế giới, Việt Nam là dân tộc đã trải qua một cuộc nội chiến với kết quả là bản án tử kết thúc chế độ tự do dân chủ miền Nam ngày 30/4/1975. Hơn ai hết, những người lính Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) năm xưa hiểu rõ cảm giác “bị lừa dối” hoặc “bị phản bội” từ bản Hiệp Định Paris do Henry Kissinger và Lê Đức Thọ thỏa thuận sau lưng chính quyền VNCH, với sự ủng hộ của Tổng Thống Richard Nixon lúc đó. Vì thế mà kể từ khi Putin phát động cuộc tấn công xâm lược Ukraine ba năm trước, người dân Việt Nam luôn tỏ rõ lập trường cùng với các lãnh đạo Châu Âu đứng về phía dân tộc và đất nước Ukraine, trừ chính quyền CSVN đã hai lần bỏ phiếu trắng nghị quyết của Liên Hiệp Quốc.
Điều gì thực sự xảy ra khi niềm tin nơi người đàn ông ở Tòa Bạch Ốc đang lung lay? Chúng ta sắp tìm ra câu trả lời rồi. “Ông ta không thể cho biết khi nào Canada sẽ tổ chức bầu cử. Chuyện gì thực sự đang diễn ra ở đó? Ông ta đang cố gắng duy trì quyền lực phải không?” Donald Trump đã viết trên mạng xã hội sau cuộc trò chuyện với Thủ tướng Justin Trudeau vào tuần trước.
Tưởng tượng một khu vườn xinh đẹp như vườn thượng uyển của vua chúa ngày trước với hoa lá muôn màu lung linh trong gió hiền và nắng ấm. Rồi bỗng dưng một cơn mưa đá đổ xuống. Cây, lá, cành, nụ… đủ sắc màu quằn quại dưới những cục đá thả xuống từ không gian. Tàn cơn mưa, những nụ, những hoa, những cánh lá xanh non tan nát. Những cục nước đá tan đi. Bạn không còn tìm ra dấu vết thủ phạm, bạn chỉ thấy những thứ bạn phải gánh chịu: ấy là những tổn thất bất ngờ. Ở một nơi mà vô số các sắc tộc sống chung với nhau như Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ, mỗi ngôn ngữ là một loài hoa đầy hương sắc trong khu vườn muôn sắc màu ấy. Nhưng rồi trong trận thiên tai, mỗi sắc lệnh của chính phủ là một hòn đá ném xuống, hoa lá cành tan nát theo nhau. Bạn không biết những cơn mưa đá còn bao lâu. Bạn cũng không thể nào đoán trước được những tổn thất chúng đổ xuống cho khu vườn yêu quý mà bạn dày công gầy dựng.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.