Hôm nay,  

Kamala Harris: Những Áp Lực Người Đa Sắc Tộc Thường Phải Đối Mặt

25/10/202400:00:00(Xem: 2359)

Harris
Phó Tổng thống Kamala Harris, ứng viên Tổng thống của Đảng Dân chủ, thường xuyên nhận được những câu hỏi (hay thậm chí là bị chất vấn) về căn tính đa sắc tộc của mình. (Nguồn: Chụp lại từ YouTube)

Đôi khi, nhiều người sẽ cảm thấy áp lực vì bị ép buộc phải chọn một căn tính, một bản dạng (identity) thay vì được sống với tất cả các bản sắc thuộc về bản thân. Kamala Harris là một thí dụ dễ hiểu cho tình cảnh phức tạp của những người mang dòng máu đa sắc tộc.
 
Bà thường bị hỏi về căn tính da đen (Black identity) của mình (dù bà cũng có gốc gác Ấn Độ). Khi trả lời về vấn đề này, Harris khẳng định rõ ràng rằng bà biết rất rõ về bản thân mình: “Tôi biết rõ mình là ai, nếu ai đó không hiểu được điều này, thì họ cần phải tự tìm cách để hiểu.
 
Trong hội nghị của Hội Nhà báo Da đen Quốc gia (National Association of Black Journalists, NABJ) vào tháng 7/2024, cựu Tổng thống Donald Trump đã đặt câu hỏi về căn tính của Harris: “Rồi thì bả là người Ấn Độ hay người da đen vậy?
 
Câu hỏi này cho thấy cách nhìn thiển cận và suy nghĩ hẹp hỏi về căn tính, buộc người ta phải lựa chọn một căn tính duy nhất. Là một học giả chuyên nghiên cứu về xã hội dựa trên tư tưởng của các nhà trí thức da đen, Giảng sư về Giáo dục Đại học Wilson K. Okello (và là Giám đốc của Black Study in Education Lab, Penn State) nhấn mạnh rằng căn tính không chỉ dựa vào một quyết định đơn lẻ, mà là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, bao gồm môi trường sống và quá trình xã hội hóa (socialization).
 
Hành trình của Harris
 
Trong cuốn tự truyện “The Truths We Hold,” Harris kể lại rằng cha mẹ bà, Donald Harris và Shyamala Gopalan, đã gặp nhau tại Đại học California, Berkeley vào thập niên 1960. Họ đến với nhau qua các phong trào chính trị cấp tiến của cộng đồng trí thức da đen, tìm thấy sự đồng điệu trong tư tưởng và các giá trị chung. Họ cùng tham gia vào các nhóm nghiên cứu và sau đó là Hội Afro-American (Người Mỹ gốc Phi), cùng đấu tranh cho dân quyền và bình đẳng chủng tộc.
 
Harris vẫn thường nhận mình vừa là người Mỹ gốc Phi và cũng không hề chối bỏ gốc Á của mình. Tại Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ, bà đã nhắc lại niềm tự hào về xuất thân đa chủng tộc và cách mà những giá trị ấy đã hình thành nên con người bà.
 
Trong tự truyện, Harris chia sẻ rằng mẹ bà biết rằng nhiều người có thể sẽ nhìn nhận bà và em gái bà, Maya, như những người da đen. Vì vậy, mẹ của Harris quyết tâm nuôi dạy hai chị em bà trở thành những phụ nữ da đen mạnh mẽ và tự tin.
 
Harris đã chọn học tại Đại học Howard, trường đại học lịch sử dành cho người da đen, và gia nhập hội nữ sinh Alpha Kappa Alpha. Bà cũng nhấn mạnh rằng từ nhỏ cha mẹ đã dạy cho bà những giá trị như tinh thần làm việc chăm chỉ và công bằng xã hội.
 
Căn tính có tính phức tạp, có thể thay đổi, và đa chiều
 
Mỗi người có thể mang nhiều căn tính, bản sắc khác nhau dựa trên chủng tộc, phái tính, văn hóa và giai cấp xã hội cùng với nhiều yếu tố khác. Những khía cạnh này không thể tách rời nhau, mà ngược lại, chúng kết hợp và ảnh hưởng lẫn nhau. Thí dụ, một người có thể vừa là người da đen, vừa là phụ nữ, vừa là người đồng tính.
 
Những yếu tố này không tồn tại độc lập mà bổ sung, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra một bản sắc độc đáo của từng cá nhân. Hơn nữa, căn tính của một người không phải là điều cố định, bất biến mà luôn thay đổi và tiến bộ. Bởi vì niềm tin và giá trị của mỗi người có thể thay đổi theo thời gian, và cách họ nhìn nhận, định nghĩa về bản thân cũng sẽ thay đổi theo.
 
Như vậy, căn tính được hình thành từ bối cảnh cuộc sống và lựa chọn cá nhân. Việc xác định căn tính không chỉ đơn thuần là tự tuyên bố là Ta là ai, mà còn là cách ta muốn sống và thể hiện bản thân trong cuộc đời, xã hội. Đó là một quá trình phức tạp đòi hỏi chúng ta phải đưa ra những lựa chọn và vượt qua các thách thức xã hội, thí dụ như một người có thể quyết định chấp nhận cả hai căn tính về chủng tộc và phái tính tính, bất chấp những áp lực rất lớn từ xã hội muốn họ chỉ được chọn một.
 
Việc Kamala Harris chấp nhận và tự hào về căn tính đa sắc tộc của mình là thành quả tốt đẹp của những điều mà bà học được từ cha mẹ và môi trường sống của mình.
 
Bảo vệ căn tính trước áp lực xã hội
 
Trong suốt lịch sử, những căn tính phức tạp thường không được cho là phù hợp với các chuẩn mực xã hội, xuất phát từ nỗi sợ rằng việc thừa nhận những căn tính phức tạp có thể gây nguy hiểm cho sự “thuần khiết chủng tộc” của người da trắng và các đặc quyền liên quan đến điều đó. Vì vậy, khi Trump đặt câu hỏi về căn tính chủng tộc của Kamala Harris, đó là một lời nhắc nhở về quan niệm lâu đời rằng mọi người thường bị ép buộc phải chọn một căn tính duy nhất.
 
Một thí dụ có thể nhắc đến là “quy tắc một giọt máu” (one-drop rule) tại Hoa Kỳ, tức là chỉ cần trong người có mang chút gốc gác (dòng máu) không phải gốc da trắng thì sẽ bị xếp vào nhóm thiểu số (không phải da trắng ‘chính gốc,’ ‘chính tông’). Quy tắc này xuất phát từ một đạo luật ở Virginia vào năm 1662, nhằm củng cố sự phân chia ranh giới chủng tộc nghiêm ngặt.
 
Suy nghĩ rằng căn tính có thể được xác định chỉ dựa vào một yếu tố, chẳng hạn như chủng tộc, là một quan niệm sai lầm, vì căn tính có thể thay đổi theo thời gian. Kamala Harris là người mang cả dòng máu Nam Á và gốc da đen, và bà hoàn toàn có quyền tự xác định căn tính của mình. Bất kỳ ai chất vấn về vấn đề này đều không thật sự xuất phát từ mong muốn chân thành tìm hiểu để cho biết, mà có thể chỉ là nhằm mục đích làm dấy lên những hoài nghi, hòng gây chia rẽ mọi người.

Nguyên Hòa biên dịch 
Nguồn: “Kamala Harris illustrates how complex identity is − and the pressure many multiracial people feel to put themselves in one ‘box’” được đăng trên trang TheConversation.com.
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nghèo đói là yếu tố quyết định mạnh mẽ của bệnh Lao. Môi trường sống và làm việc đông đúc và kém thông gió thường liên quan đến nghèo đói, tạo thành các yếu tố gây nguy cơ trực tiếp cho việc lây truyền bệnh lao. Suy dinh dưỡng cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng để bệnh phát triển. Nghèo đói lại cũng liên quan đến tình trạng kém kiến thức về sức khỏe và từ đó thiếu những sự bảo vệ sức khỏe trong đời sống hàng ngày dẫn đến nguy cơ tiếp xúc và truyền bệnh.
Trong hai ngày Thứ Bảy & Chủ Nhật 17 & 18/08/2024, tại Bowers Museum, Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt phối hợp cùng Trung Tâm Việt Nam Texas Tech University, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt - Mỹ University of Oregon đã tổ chức hai buổi triển lãm và thảo luận về hai chủ đề: Cải Cách Ruộng Đất Miền Bắc Việt Nam và Cuộc Di Cư Năm 1954. Khoảng 1,000 lượt người đã đến tham dự hai sự kiện về lịch sử từ bảy thập niên trước. Có thể nói rằng lâu lắm rồi tại Thủ Đô Người Việt Tị Nạn mới có một sự kiện lịch sử được tổ chức với qui mô lớn và công phu như thế. Động lực nào đã khiến ba tổ chức chuyên nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam cùng nhau tổ chức sự kiện này? Ông Châu Thụy, Giám Đốc Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt nói lời khai mạc, chào mừng mọi người đến với cuộc triển lãm và hội thảo, để cùng nhau ôn lại, nhìn theo những góc nhìn mới về hai sự kiện lịch sử vẫn còn ảnh hưởng đến người Việt cả trong nước lẫn hải ngoại đến tận ngày hôm nay.
Hiểu cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đòi hỏi phải đặt nó trong một bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn, thay vì xem xét nó một cách tách biệt. Được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1953, cải cách ruộng đất bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các sự kiện biến động sau Thế chiến II. Sự kết thúc của cuộc chiến, nạn đói năm 1945, và cuộc đấu tranh sau đó để giành độc lập khỏi ách thực dân Pháp đã tạo ra một không khí cách mạng ở Việt Nam. Cuộc chiến tranh Pháp-Việt (1946-1954) đã làm tăng sự cấp bách cho những thay đổi xã hội và kinh tế triệt để khi Việt Minh tìm cách củng cố quyền lực và giải quyết các bất bình giữa người giàu và người nghèo do khai thác thực dân gây ra.
Cuối tuần vừa qua tôi đi dự hội thảo về Việt Nam tại Bảo tàng Bowers ở thành phố Santa Ana, thủ phủ của Quận Cam. Hai ngày hội thảo với hai chủ đề có liên quan với nhau là Cải cách Ruộng đất 1953-56 và Di cư 1954. Xong ngày đầu của hội thảo, đi ăn tối với một bạn sống ở Quận Cam từ năm 1978, khi biết chủ đề là về cải cách ruộng đất, bạn hỏi ngay: “Có hình Hồ Chí Minh cầm khăn khóc không?”. Bạn tôi ít quan tâm đến sinh hoạt cộng đồng nhưng cũng biết sử Việt vì là con trong gia đình bắc di cư 54, lớn lên tại miền Nam và sống ở đó cho đến khi vượt biển. Hình Hồ Chí Minh khóc và sự kiện bà Nguyễn Thị Năm đóng góp nhiều vàng cho Việt Minh rồi cũng bị đấu tố trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam từ 1953 đến 1956 có lẽ là những hiểu biết cơ bản của nhiều người Việt, dù không chứng kiến hay trực tiếp là nạn nhân trong sự việc. Những hình ảnh đó hôm nay cũng đã được trưng bày tại Bảo tàng Bowers và có trong bài nói chuyện của diễn giả tại hội thảo.
Chương trình Triển Lãm Và Thảo Luận Cải Cách Ruộng Đất ở Bắc Việt & Cuộc Di Cư 1954 vừa chấm dứt. Việt Báo đăng lại toàn bài của giáo sự Trần Huy Bích chiều Chủ Nhật ngày 18 tháng 8 tại Bowers Museum kể lại câu chuyện di cư của Ông và bối cảnh Bắc Việt những ngày tháng 8, 1954.
John Andrew Jackson vừa chào đời đã mang phận nô lệ, và được định sẵn là sẽ dành trọn kiếp sống tủi nhục trên những cánh đồng bông vải ở Nam Carolina. Nhưng, không cúi đầu trước số phận, Jackson đã thoát khỏi cảnh nô dịch, trở thành một diễn giả và văn nhân có ảnh hưởng lớn đến phong trào bãi nô. Ông cũng là nguồn cảm hứng cho tác phẩm kinh điển Uncle Tom's Cabin (Túp Lều của Chú Tom) của Harriet Beecher Stowe, xuất bản năm 1852. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng về chế độ nô lệ này được nhiều sử gia đánh giá là đã góp phần thúc đẩy cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ.
(Little Saigon-VB) - Để đánh dấu 70 năm cuộc di cư Bắc Nam hậu Hội nghị Geneva; và cùng nhìn lại sự kiện Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam dưới thời VNDCCH với tác động, hệ lụy trên cả nước đối với quốc gia, dân tộc Việt, Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt, Trung Tâm Việt Nam ĐH Texas Tech, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt-Mỹ ĐH Oregon phối hợp tổ chức Triển Lãm Thảo Luận Cải Cách Ruộng Đất ở Bắc Việt và Cuộc Di Cư 1954: Hai Biến Cố Thay Đổi Lịch Sử Việt Nam Hiện Đại vào hai ngày: Thứ Bảy, ngày 17 tháng 8: Cải cách ruộng đất và đấu tranh giai cấp ở miền Bắc Việt Nam, 1953-1957; Chủ nhật, ngày 18 tháng 8: Cuộc di cư của gần 1 triệu người từ miền Bắc vào miền Nam năm 1954 tại Bowers Museum 2002 N. Main St, Santa Ana, CA 92706.
Ở Hy Lạp thời cổ đại, Thế vận hội Olympics không chỉ là sự kiện để các vận động viên thể hiện sức mạnh và tài năng, mà còn là dịp để những tâm hồn thi ca tỏa sáng – họ sẽ mang những vầng thơ của mình xướng lên trước đám đông khán giả đang háo hức. Và thời đó, các vận động viên cũng thường cậy nhờ những thi sĩ nổi tiếng sáng tác những bài thơ ca ngợi chiến thắng vinh quang của mình. Sau đó, những bài thơ này sẽ được các dàn hợp xướng biểu diễn trong các buổi lễ long trọng. Có một thời văn-võ đã song hành với nhau như thế.
Kể từ khi thượng nghị sĩ JD Vance được chỉ định làm ứng viên phó tổng thống của Donald Trump, các nhà bình luận đã xem xét lại cuốn hồi ký “Hillbilly Elegy” năm 2016 của Vance để tìm hiểu về bối cảnh chính trị hiện nay của Hoa Kỳ. Tám năm trước, Vance là người không bao giờ chấp nhận Trump (Never-Trumper), từng so sánh chủ nghĩa Trump (Trumpism) với “heroin văn hóa,” trong một bài viết trên tạp chí The Atlantic. Tuy nhiên, cuốn hồi ký của Vance là một tài liệu quan trọng để giải thích tại sao chính trị Hoa Kỳ ngày nay lại chuyển hướng ủng hộ Trump.
Từ khi Julius Caesar lìa đời với câu “Et tu, Brute?” (xin tạm dịch: “Cả ngươi nữa sao, Brutus?”), các vụ ám sát chính trị đã không phải là chuyện gì hiếm có. Nhưng liệu với sự phát triển của xã hội thời hiện đại, số lượng các vụ ám sát chính trị có giảm bớt hay không? Liệu vụ ám sát bất thành cựu Tổng thống Donald Trump có phải là một sự kiện ngoại lệ trong các nền dân chủ hiện đại?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.