Hôm nay,  

Được làm vua, thua làm giặc

14/11/202411:20:00(Xem: 2281)
Hoàng Đế Caligula
Vị hoàng đế La Mã này được lịch sử ghi nhớ là một vua chúa tàn độc khát máu và có đời sống trụy lạc. Hoàng đế Caligula không chỉ giết hại dân thường, mà ông còn làm hại cả những người thân cận, bất kỳ ai mà ông coi là mối đe dọa.

 

 

Xưa kia, người đứng đầu cai trị nước gọi là vua, hay hoàng đế, nay kêu là quốc trưởng, hay tổng thống, hay chủ tịch nước.

 

Người đứng đầu một quốc gia, xưa và nay, đều có nhiều mưu sĩ ở bên cạnh để góp ý lo việc quốc gia đại sự, những mưu sĩ đó nay gọi là cố vấn, tham mưu.

 

Khi xưa thì gọi là quân sư, thí dụ đệ nhất quân sư thời Tam Quốc (ở Trung Hoa) là ông Gia cát Lượng, ông là quân sư của Lưu Bị.

 

Ông Gia Cát Lượng là người có tài quân sự, chính trị, kinh tế.

 

Ông cũng là người có đạo đức cao thượng trong sáng, có nhân cách và năng lực giúp vua, giúp đời, an dân hoàn hảo.

 

Những quân sư xa xưa đó thuộc nhiều thành phần có học có hiểu biết trong xã hội. Xã hội gọi họ là học sĩ, sách sĩ, hiệp sĩ… họ có lắm mưu nhiều trí và thỉnh thoảng may ra được một vị vua chiêu hiền đãi sĩ, mời đến góp ý bàn mưu để cai trị nước hay diệt giặc.

 

Các vua chúa, lúc xưa, tuy chiêu hiền đãi sĩ, nhưng họ đâu có thước đo tài, nên các học sĩ muôn làm quân sư cho một minh quân, phải có một vị tài trí uy tín tiến cử. Người giới thiệu phải trọng tài mến đức và không ghen với kẻ được giới thiệu.

 

Tuy may mà có người giới thiệu tiến cử, vẫn rất khó được vua để mắt tới, vì thời nào cũng vậy, là mật ít ruồi nhiều. Tô Tần vào yết kiến vua Tần, phải chầu chực đến nỗi rách cả áo quần, tiêu hết số tiền vàng phòng thân, phải dâng sớ 10 lần mà không có kết quả. Khi đã được thu dụng cũng hiếm khi được trọng dụng.

 

Ngày nay, những kẻ sĩ đi theo góp ý cho tổng thống gọi là những cố vấn hay nhiều cố vấn họp thành ban tham mưu, như ban tham mưu vận động tranh cử của cựu tổng thống Donald Trump, hay ban tham mưu vận động tranh cử của phó tổng thống Kamala Harris mới đây tháng 11 năm 2024.

 

Những nhân vật trong ban tham mưu cố vấn rất quan trọng, họ đánh dấu bước thành hay bại của nhân vật chủ chốt mà họ phục vụ.

 

Lý tưởng, tâm ý của họ dĩ nhiên đồng điệu với minh chủ. Khi xưa, có những bề tôi, những kẻ sĩ theo phò vua chúa của họ suốt đời, khi thành công cũng như khi thất bại.

 

Từ trước công nguyên 551 năm, thời Đông Chu, bên nước Trung , những kẻ sĩ không hẳn phải là những môn đệ của Khổng Tử. Từ trước công nguyên 551 năm, thời Đông Chu, bên nước Trung hoa, những kẻ sĩ không hẳn phải là những môn đệ của Khổng Tử. Nhiều người trong họ chỉ dùng quyền thuật hay tài riêng mà trị dân.

 

Nhưng từ đời Tấn đời Hán, về sau này, thì những kẻ sĩ tài ba này lại đưa chủ trương “tuyển hiền dữ năng“ của Khổng Tử vào xã hội, giúp cho vua tôi và xã hội Trung Hoa bớt đi sự bất bình đẳng, xã hội ôn hòa nhân ái hơn ở xã hội Âu Châu, vì xã hội Âu Châu lúc đó, chỉ có giai cấp quý tộc mới được nắm trọn quyền hành.

 

Thời chiến quốc Trung Hoa, người bình dân có tài đức đã được trao cho những địa vị then chốt trong chính quyền, tới đời Hán thì có lệ dân cử người tài ra lo việc xã hội, rồi việc thi cử được tổ chức theo sau.

 

Nguyên tắc chung là như vậy, nhưng trong xã hội, luôn có những sự kiện cá biệt, có những minh chủ bầy tôi trung thành, mà cũng có những trung thần không được minh chúa ưu đãi, nghe lời; mà còn ám hại. Có những cặp vua tôi xứng đáng tài đức bên nhau, lo việc ích nước lợi dân ; cũng có chúatôi a dua nhau làm việc bất chánh, phản phúc… mà người đời xưa và nay gọi là : được làm vua, thua làm giặc.

 

Về đời Xuân Thu (722-479) chỉ vua Chu mới được gọi là vương, còn các chư hầu dù mạnh, dù làm minh chủ, cũng chỉ gọi được là bá, là công. Thí dụ : Trí Vương gọi là Trí Bá, Tề Hoàn Công, Tần Mục Công (công và bá này đều là vua) nhưng qua đời Chiến Quốc, tình hình chiến sự trở nên gay go hơn, nên vua nước chư hầu nào cũng xưng vương cả, như Hầu Huệ Vương, Tề Uyên Vương, Sở Hoài Vương…

 

Trí vương hay trí bá cũng là một vương chủ thời Chiến Quốc, thống lãnh cai trị Đông Tấn. Sau một thời gian việc binh đao dằng dai, nước Tấn đồng lòng chia thành ba nước: Triệu, Hàn và Ngụy.

 

Nhưng trí bá khởi binh đánh thắng hai họ Phạm và Trung

 

Mấy năm qua đi, Trí Bá sai vài người qua đất Hàn, kể công đòi đất. Vua Hàn là Hàn Khang Tử định không cho, nhưng quân sư Đoàn Quý khuyên vua rằng:

 

Không nên từ chối, vì Trí Bá là con người ham lợi và hung bạo. Hắn sai người vừa xin vừa đòi đất, mà mình không cho, tất hắn mang binh đánh mình. Nhà vua nên cho hắn, để hắn quen mùi, lại đi đòi đất của nước khác, nước khác không chịu, hắn tất đem binh đánh, vậy là nước Hàn tránh được nạn binh đao và đợi chờ xem sự thế biến chuyển ra sao. Hàn Khang Tử đáp:

 

Hay.

 

Rồi sai sứ giả nạp một ấp gồm một vạn nhà cho Trí Bá. Trí Bá mừng rỡ, lại sai người đi đòi đất của nước Ngụy, vua Ngụy là Ngụy Tuyên Tử định không cho, nhưng quân sư can rằng:

 

Hắn đã đòi đất của Hàn, Hàn đã cho, nay hắn đòi đất của Ngụy, mà Ngụy không cho, hắn cho là mình muốn chọc giận hắn, rồi Trí Bá tất đem quân sang đánh Ngụy. Chi bằng vua cho hắn đi.

 

Ngụy Tuyên Tử bằng lòng đáp:

 

Phải.

 

Rồi cũng sai người mang một ấp gồm một vạn nhà dâng cho Trí Bá. Trí Bá tiếp tục sai người qua nước Triệu đòi đất nữa. Vua Triệu là Triệu Tương Tử từ chối. Trí Bá liền liên minh với nước Hàn và nước Ngụy, rủ họ cùng đi đánh nước Triệu.

 

Vua Triệu vời quân sư Trương Mạnh Đàm vô cho hay:

 

Trí Bá là một con người tham lam, lá mặt lá trái, hắn nhiều lần sai sứ giả đi cắt đất. Hàn và Ngụy đã cho, mà quả nhân không cho, thế nào hắn cũng đem binh đánh nước Triệu, giờ mình phải đề phòng làm sao?

 

Quân sư họ Trương đồng ý với vua Triệu. Không cho Trí Bá một mảnh đất. Vua tôi ban hiệu lệnh chống cự Trí Bá. Họ truyền quân lính chuẩn bị các võ khí và ứng chiến.

 

Quân lính của Trí Bá vây hãm thành nước Triệu tới ba, bốn năm. Trong thành người dân phải làm ổ trên cây mà ngủ. Treo nồi lên cao mà đun nấu. Thức ăn dần cạn hết, dân và quân lính ốm đau. Vua Triệu buồn rầu bảo với quân sư:

 

Sức chống cự sắp hết, tôi muốn xin hàng đây, ông nghĩ sao?

 

Quân sư họ Trương trả lời:

 

Tôi nghe rồi, nước sắp mất mà không bảo toàn được, nước Triệu nguy mà không cứu được, thì còn quý kẻ trì trí mà làm gì? Tôi đi đây!

 

Ông đi đâu?

 

Tôi đi yết kiến hai vua Hàn và Ngụy. Nói họ cùng đoàn kết, tìm kế cứu khốn phò nguy cho cả ba nước chúng ta.

 

Nói rồi quân sư Trương tìm cách lén vô gặp hai vua Hàn và Ngụy:

 

Nay Trí Bá tấn công nước Triệu ròng rã mấy năm, thế nước tôi rất lâm nguy. Xin các ông giúp đỡ. Vì nếu nước Triệu tôi mất, sẽ tới lượt nước Hàn và Ngụy đấy.

 

Chúng tôi biết là như vậy, nhưng Trí Bá là con người hung bạo, nóng nảy, tham lam, ít lòng nhân ái.

 

Nếu mưu kế của chúng ta là hợp lại cả ba nước, đánh nhau với Trí Bá, sợ ý đó chưa thực hành được mà họa lớn xẩy đến với chúng tôi.

 

Không hiểu quân sư họ Trương thuyết phục sao đó mà sau Hàn và Ngụy đồng lòng liên kết với quân Triệu, mưu tấn công lại Trí Bá.

 

Trí Bá cũng có người anh em là Trí Quá, đi thăm dò tin tức và cho Trí Vương hay âm mưu của cả ba nước Hàn, Ngụy, Triệu lập một liên minh chống cự.

 

Nhưng Trí Vương không tin người anh em, sợ là sau cuộc chiến, không biết có phân thắng bại hay không, lại sợ rằng mình còn phải chia đất lần nữa cho Trí Quá.

 

Vì tham lam và hung dữ, Trí Vương quyết phá thành, tấn công tiêu diệt Triệu, nhằm mưu đồ thừa thắng lấy luôn hai nước Hàn và Ngụy sau đó.

 

Quân sư Trương Mạnh Đàm ra sức giúp nước Triệu, hiệp lực với quân Hàn và quân Ngụy chống trả Trí Bá. Ngay trong đêm khai chiến, họ Trương mua chuộc được tên quan coi đập nước vây thành, để tháo nước cho nước sông cái tràn vô chỗ quân Trí Vương đóng… nước sông này lúc trước là do Trí Vương sai quân lính đào để dẫn nước sông Tấn vào bao vây thành lũy của Triệu Tương Tử.

 

Khi nước sông Tấn là sông cái tràn vô ào ạt, quân và Trí Vương lo việc cứu thủy mà hỗn loạn rồi đại bại. Quân Hàn, quân Ngụy chia nhau đánh hai bên hông. Quân của Triệu Tương Tử trực chiến đối diện, phá tan tành quân của Trí Vương, Trí Bá, là Trí Vương bị bắt và bị cầm tù.

 

Sau này Trí Bá buồn khổ trong tù mà chết. Trí Bá mất, nước cũng mất, đất cũng bị chia. Thiên hạ cười chê Trí Bá tham lam vô độ, hung hăng ngược ngạo và toan tính ngược lòng trời, ý nói, “được làm vua thua làm giặc.“

 


Phỏng lược theo Chiến Quốc Sách
của các tác giả Giản Chi và Nguyễn Hiến Lê
 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nghèo đói là yếu tố quyết định mạnh mẽ của bệnh Lao. Môi trường sống và làm việc đông đúc và kém thông gió thường liên quan đến nghèo đói, tạo thành các yếu tố gây nguy cơ trực tiếp cho việc lây truyền bệnh lao. Suy dinh dưỡng cũng là một yếu tố nguy cơ quan trọng để bệnh phát triển. Nghèo đói lại cũng liên quan đến tình trạng kém kiến thức về sức khỏe và từ đó thiếu những sự bảo vệ sức khỏe trong đời sống hàng ngày dẫn đến nguy cơ tiếp xúc và truyền bệnh.
Trong hai ngày Thứ Bảy & Chủ Nhật 17 & 18/08/2024, tại Bowers Museum, Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt phối hợp cùng Trung Tâm Việt Nam Texas Tech University, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt - Mỹ University of Oregon đã tổ chức hai buổi triển lãm và thảo luận về hai chủ đề: Cải Cách Ruộng Đất Miền Bắc Việt Nam và Cuộc Di Cư Năm 1954. Khoảng 1,000 lượt người đã đến tham dự hai sự kiện về lịch sử từ bảy thập niên trước. Có thể nói rằng lâu lắm rồi tại Thủ Đô Người Việt Tị Nạn mới có một sự kiện lịch sử được tổ chức với qui mô lớn và công phu như thế. Động lực nào đã khiến ba tổ chức chuyên nghiên cứu lịch sử cận đại Việt Nam cùng nhau tổ chức sự kiện này? Ông Châu Thụy, Giám Đốc Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt nói lời khai mạc, chào mừng mọi người đến với cuộc triển lãm và hội thảo, để cùng nhau ôn lại, nhìn theo những góc nhìn mới về hai sự kiện lịch sử vẫn còn ảnh hưởng đến người Việt cả trong nước lẫn hải ngoại đến tận ngày hôm nay.
Hiểu cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam đòi hỏi phải đặt nó trong một bối cảnh lịch sử rộng lớn hơn, thay vì xem xét nó một cách tách biệt. Được khởi xướng bởi Đảng Cộng sản Việt Nam vào năm 1953, cải cách ruộng đất bị ảnh hưởng sâu sắc bởi các sự kiện biến động sau Thế chiến II. Sự kết thúc của cuộc chiến, nạn đói năm 1945, và cuộc đấu tranh sau đó để giành độc lập khỏi ách thực dân Pháp đã tạo ra một không khí cách mạng ở Việt Nam. Cuộc chiến tranh Pháp-Việt (1946-1954) đã làm tăng sự cấp bách cho những thay đổi xã hội và kinh tế triệt để khi Việt Minh tìm cách củng cố quyền lực và giải quyết các bất bình giữa người giàu và người nghèo do khai thác thực dân gây ra.
Cuối tuần vừa qua tôi đi dự hội thảo về Việt Nam tại Bảo tàng Bowers ở thành phố Santa Ana, thủ phủ của Quận Cam. Hai ngày hội thảo với hai chủ đề có liên quan với nhau là Cải cách Ruộng đất 1953-56 và Di cư 1954. Xong ngày đầu của hội thảo, đi ăn tối với một bạn sống ở Quận Cam từ năm 1978, khi biết chủ đề là về cải cách ruộng đất, bạn hỏi ngay: “Có hình Hồ Chí Minh cầm khăn khóc không?”. Bạn tôi ít quan tâm đến sinh hoạt cộng đồng nhưng cũng biết sử Việt vì là con trong gia đình bắc di cư 54, lớn lên tại miền Nam và sống ở đó cho đến khi vượt biển. Hình Hồ Chí Minh khóc và sự kiện bà Nguyễn Thị Năm đóng góp nhiều vàng cho Việt Minh rồi cũng bị đấu tố trong cải cách ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam từ 1953 đến 1956 có lẽ là những hiểu biết cơ bản của nhiều người Việt, dù không chứng kiến hay trực tiếp là nạn nhân trong sự việc. Những hình ảnh đó hôm nay cũng đã được trưng bày tại Bảo tàng Bowers và có trong bài nói chuyện của diễn giả tại hội thảo.
Chương trình Triển Lãm Và Thảo Luận Cải Cách Ruộng Đất ở Bắc Việt & Cuộc Di Cư 1954 vừa chấm dứt. Việt Báo đăng lại toàn bài của giáo sự Trần Huy Bích chiều Chủ Nhật ngày 18 tháng 8 tại Bowers Museum kể lại câu chuyện di cư của Ông và bối cảnh Bắc Việt những ngày tháng 8, 1954.
John Andrew Jackson vừa chào đời đã mang phận nô lệ, và được định sẵn là sẽ dành trọn kiếp sống tủi nhục trên những cánh đồng bông vải ở Nam Carolina. Nhưng, không cúi đầu trước số phận, Jackson đã thoát khỏi cảnh nô dịch, trở thành một diễn giả và văn nhân có ảnh hưởng lớn đến phong trào bãi nô. Ông cũng là nguồn cảm hứng cho tác phẩm kinh điển Uncle Tom's Cabin (Túp Lều của Chú Tom) của Harriet Beecher Stowe, xuất bản năm 1852. Cuốn tiểu thuyết nổi tiếng về chế độ nô lệ này được nhiều sử gia đánh giá là đã góp phần thúc đẩy cuộc Nội chiến của Hoa Kỳ.
(Little Saigon-VB) - Để đánh dấu 70 năm cuộc di cư Bắc Nam hậu Hội nghị Geneva; và cùng nhìn lại sự kiện Cải cách Ruộng đất ở miền Bắc Việt Nam dưới thời VNDCCH với tác động, hệ lụy trên cả nước đối với quốc gia, dân tộc Việt, Viện Bảo Tàng Di Sản Người Việt, Trung Tâm Việt Nam ĐH Texas Tech, Trung Tâm Nghiên Cứu Việt-Mỹ ĐH Oregon phối hợp tổ chức Triển Lãm Thảo Luận Cải Cách Ruộng Đất ở Bắc Việt và Cuộc Di Cư 1954: Hai Biến Cố Thay Đổi Lịch Sử Việt Nam Hiện Đại vào hai ngày: Thứ Bảy, ngày 17 tháng 8: Cải cách ruộng đất và đấu tranh giai cấp ở miền Bắc Việt Nam, 1953-1957; Chủ nhật, ngày 18 tháng 8: Cuộc di cư của gần 1 triệu người từ miền Bắc vào miền Nam năm 1954 tại Bowers Museum 2002 N. Main St, Santa Ana, CA 92706.
Ở Hy Lạp thời cổ đại, Thế vận hội Olympics không chỉ là sự kiện để các vận động viên thể hiện sức mạnh và tài năng, mà còn là dịp để những tâm hồn thi ca tỏa sáng – họ sẽ mang những vầng thơ của mình xướng lên trước đám đông khán giả đang háo hức. Và thời đó, các vận động viên cũng thường cậy nhờ những thi sĩ nổi tiếng sáng tác những bài thơ ca ngợi chiến thắng vinh quang của mình. Sau đó, những bài thơ này sẽ được các dàn hợp xướng biểu diễn trong các buổi lễ long trọng. Có một thời văn-võ đã song hành với nhau như thế.
Kể từ khi thượng nghị sĩ JD Vance được chỉ định làm ứng viên phó tổng thống của Donald Trump, các nhà bình luận đã xem xét lại cuốn hồi ký “Hillbilly Elegy” năm 2016 của Vance để tìm hiểu về bối cảnh chính trị hiện nay của Hoa Kỳ. Tám năm trước, Vance là người không bao giờ chấp nhận Trump (Never-Trumper), từng so sánh chủ nghĩa Trump (Trumpism) với “heroin văn hóa,” trong một bài viết trên tạp chí The Atlantic. Tuy nhiên, cuốn hồi ký của Vance là một tài liệu quan trọng để giải thích tại sao chính trị Hoa Kỳ ngày nay lại chuyển hướng ủng hộ Trump.
Từ khi Julius Caesar lìa đời với câu “Et tu, Brute?” (xin tạm dịch: “Cả ngươi nữa sao, Brutus?”), các vụ ám sát chính trị đã không phải là chuyện gì hiếm có. Nhưng liệu với sự phát triển của xã hội thời hiện đại, số lượng các vụ ám sát chính trị có giảm bớt hay không? Liệu vụ ám sát bất thành cựu Tổng thống Donald Trump có phải là một sự kiện ngoại lệ trong các nền dân chủ hiện đại?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.