Hôm nay,  

Nguyễn Đồng: Những Vệt Màu Còn Lại Của Một Thời Vàng Son

04/04/202500:00:00(Xem: 2792)

DN2
 
Sự ra đi lặng lẽ của họa sĩ Nguyễn Đồng là một một dư vang trầm mặc trong ký ức nghệ thuật Miền Nam – một miền nghệ thuật từng sống động, tự do, nơi mà hội họa được đặt ngang hàng với văn học, triết học, và cả chính trị. Ông không những là một trong những họa sĩ tiêu biểu của thời Đệ Nhị Cộng Hòa, mà còn là nhân chứng của một nền văn hóa từng rực rỡ trước khi bị chôn vùi dưới lớp bụi chiến tranh và chính trị hóa nghệ thuật.

Nguyễn Đồng – với ngôn ngữ tạo hình đầy bản sắc, vẽ nên những con người u uẩn, ánh sáng khúc xạ từ tâm tưởng – đã vượt qua cái đẹp đơn thuần. Tranh của ông không phải để ngắm, mà để chiêm nghiệm. Trong một thời kỳ hội họa Sài Gòn chưa bị thị trường điều tiết, ông là người vẽ vì niềm tin, vẽ như một chứng đạo, chứ không phải như một người làm nghề.

Từ sau biến cố 1975, ông lưu lạc sang Mỹ, tiếp tục sống bằng nghề cũ, nhưng không ồn ào, không phô trương, như chính cách ông rút lui khỏi sân khấu đời sống nghệ thuật ồn ã. Thế nhưng, sự vắng mặt của ông trong dòng chảy chính thức của cộng đồng không phải là dấu hiệu của lãng quên, mà là minh chứng cho một tình trạng đáng buồn: hội họa Việt Nam tại hải ngoại, đặc biệt tại Little Saigon, đã và đang bị bỏ quên, bên lề.

Hội Họa Tại Hải Ngoại – Tiếng Thở Dài Trong Căn Gác Tối

Không giống như văn học – vốn có một tầng lớp độc giả trung thành và còn hy vọng vài thế hệ cầm bút kế thừa – hội họa tại hải ngoại là một tiếng thở dài bị bóp nghẹt giữa đô thị hóa, kinh tế thị trường và sự lệch chuẩn thẩm mỹ của công chúng. Little Saigon là trung tâm văn hóa của người Việt lưu vong, nhưng không có lấy một bảo tàng nghệ thuật Việt, không có một không gian triển lãm phi thương mại chuyên nghiệp nào dành riêng cho hội họa.
Những gallery nếu có, phần lớn phục vụ cho nhu cầu... trang trí nội thất. Những tác phẩm được chọn treo thường phải “hợp mắt”, “dễ bán”, “đẹp kiểu tình cảm gia đình.” Hội họa phản kháng, hội họa biểu hiện, hội họa siêu thực, trừu tượng, những thể loại mang ngôn ngữ thẩm mỹ sâu sắc và mang tính triết lý – đều bị xếp vào hàng “khó hiểu”, “không bán được.”

Giới họa sĩ sống trong cảnh lặng lẽ, không báo chí chuyên ngành, không phê bình nghệ thuật, không sự hỗ trợ từ cộng đồng. Hội họa – vốn đã là một lĩnh vực đơn độc trong bất kỳ xã hội nào – ở hải ngoại/Little Saigon càng đơn độc hơn khi thiếu những “đối thoại thẩm mỹ.” Đó là chưa kể, nghệ sĩ thị giác thường không được mời gọi vào những sinh hoạt văn hóa lớn, vốn chỉ ưu tiên ca nhạc, văn học, hay diễn thuyết chính trị.


Khắc Nghiệt Hơn Văn Học – Vì Không Có Chữ Nghĩa Làm Gạch Nối

462950765_8586115874768347_385250546820878402_n
Văn học Việt hải ngoại còn có sách in, có báo chí văn nghệ, có các tổ chức như Văn Bút, có những diễn đàn như Văn Học, Khởi Hành, Hợp Lưu… (dù giờ đây đã ít nhiều tan biến), có những nhà văn có thể "viết về nhau." Hội họa thì khác. Họa sĩ Việt tại Mỹ sống như những nhà ẩn tu– vẽ trong tịch mịch, ít ai viết về mình, ít ai treo tranh họ. Và họ, cũng ít khi lên tiếng cho nhau.
Bấy giờ, không có một cộng đồng phê bình nghệ thuật nào có thể nâng họa sĩ ra khỏi sự cô đơn.

Nguyễn Đồng là một trong số ít họa sĩ được nhắc đến trong một vài bài viết hàn lâm hay hồi ký của các nhà văn cũ. Nhưng thế hệ họ đã gần như khép lại. Không ai còn viết tiếp những phác họa đời sống nghệ thuật lưu vong.

Giờ đây, khi ông ra đi, báo chí cộng đồng đưa tin như một "tin tức," nhưng không có phân tích, không có nhận định, không có "di cảo thị giác." Nếu một nhà văn mất đi, ít nhất còn lại những bài văn, hồi ký, những tập truyện in, những trích đoạn chia sẻ. Nhưng một họa sĩ mất đi – nếu không có ai giữ lại tranh ông, nếu không có một không gian lưu trữ tác phẩm – là cả một thế giới ngôn ngữ hình ảnh sụp đổ.

Hồi Sinh Một Di Sản, Hay Chấp Nhận Lạt Phai?

Câu hỏi đặt ra: phải chăng chúng ta – cộng đồng người Việt hải ngoại – đã mặc nhiên để mất đi một kho tàng nghệ thuật tạo hình mà lẽ ra phải được gìn giữ như một phần di sản? Việc này không riêng chỉ liên quan đến nghệ sĩ. Nó liên quan đến nhận thức cộng đồng về vai trò của nghệ thuật, của cái đẹp, của những gì không thể mua bán bằng tờ giấy in mực.

Nếu không có những trung tâm trưng bày – ít nhất cũng là một không gian độc lập, nhỏ thôi – thì tranh Nguyễn Đồng, và các họa sĩ như Đinh Cường, Khánh Trường, Hồ Thành Đức, Mai Chửng, hay Trịnh Cung, Nguyên Khai, cho đến thế hệ chị Ann Phong, anh Nguyễn Việt Hùng v.v.... sẽ biến mất dần khỏi ký ức công cộng. Nếu không có phê bình nghệ thuật – thì công chúng sẽ tiếp tục nhầm lẫn giữa một bức tranh in canvas số lượng lớn với một tác phẩm gốc mang tâm hồn của cả một đời người.

Little Saigon cần một cuộc phục sinh thị giác. Một không gian đối thoại nghệ thuật, vượt khỏi thẩm mỹ trang trí, vượt khỏi chủ nghĩa tiêu thụ. Sự ra đi của họa sĩ Nguyễn Đồng, cùng lúc Hồ Thành Đức có thể là hồi chuông sau cùng để chúng ta nhìn lại: nền hội họa lưu vong không mất vì thiếu tài năng, mà vì thiếu công chúng biết thưởng lãm và gìn giữ.

Chốn Bụi, 27 tháng Ba, 2025

Uyên Nguyên
  

Ý kiến bạn đọc
09/04/202505:49:56
Khách
Tin buồn nhưng phân tích có giá trị... Cũng là những tiếng kêu cứu não lòng về một bộ môn mà người thưởng ngoạn phải học hỏi nhiều và sở hữu tác phẩm thì phải tốn tiền...
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Người ta thường gói ghém một cuộc đời trong dăm ba trang giấy để gọi là hồi ký. Người ta cũng thường dùng thước đo của 10 năm, 20 năm, 30 năm… để hoài niệm một điều gì đó, cho dù là hạnh phúc hay mất mát. Nhưng không dễ gì để tái hiện cả một cuộc đời dài 80 năm, trong đó có lịch sử, có tình yêu, có nhân quả, có triết lý sống, có ân tình, có nghệ thuật, có tài năng… chỉ trong một đêm. Vậy mà, Đêm-Khánh-Ly-80-Tuổi, đã làm được điều đó.
Không hiểu sao, khi những giòng nhạc trong bài Tuổi Đá Buồn của TCS qua tiếng hát của ca sĩ Khánh Ly vang lên từ máy phát thanh ở rạp hát của Bowers Museum, lòng tôi bỗng nhiên rưng rưng. Cho dù lúc ấy, nhân vật chính là nữ ca sĩ Khánh Ly chưa xuất hiện trên sân khấu trong buổi tối kỷ niệm Sinh Nhật 80 tuổi của bà hôm thứ sáu tuần trước. Cho dù tôi đã nghe rất nhiều lần tiếng hát Khánh Ly từ lúc rất trẻ khi còn ở trong nước, hay những năm sau này ở Mỹ khi về già. Có lẽ tôi xúc động vì ý nghĩa của buổi tối kỷ niệm ngày sinh nhât của môt người nghệ sĩ đã hơn 60 năm ca hát cho đời và tạo cho mình môt chỗ đứng riêng với giọng hát đặc biệt của mình.
Nhìn lui lại kỷ niệm. Khánh Ly với nụ cười đồng cảm những lời văn vẻ tôi đang chia sẻ với 800 khán giả những tâm sự của Trịnh Công Sơn qua những ca từ mà Khánh Ly đã chọn để gửi đến người nghe trong chương trình nhạc “Khánh Ly và Từ Công Phụng” do Việt Art Production tổ chức ngày 6 tháng 3 năm 2011. Phần một, Khánh Ly hát nhạc Trịnh Công Sơn và Phần hai, Từ Công Phụng hát nhạc của ông. Hai nhạc sĩ cùng với Vũ Thành An, Lê Uyên Phương và Ngô Thụy Miên tạo ra một chân trời âm nhạc mới cho những thế hệ trẻ trong thập niên 1960-1975 và kéo dài sang hải ngoại.
Năm 2016, một vụ án xảy ra ở Little Saigon, California, gây chấn động cộng đồng hải ngoại, các hãng thông tấn cũng như báo chí truyền thông địa phương. Bảy năm sau, tình tiết và những nhân vật trong câu chuyện ly kỳ về ông Mã Long, tài xết taxi, bị ba tù vượt ngục bắt cóc, bước lên bục vinh quang ở Sudance Film Festival, dành hạng mục đạo diễn xuất sắc nhất của phim The Accidental Getaway Driver – Tài Xế Đêm. Hai năm sau nữa, vào ngày 27/2/2025, cuốn phim sẽ chính thức được trình chiếu trên màn ảnh rộng.
Cuối tuần qua, ở nhà hát Majestic, New York tràn ngập tiếng vỗ tay khi cựu Phó Tổng Thống Kamala Harris và phu quân Doug Emhoff bước vào. Đoạn video đăng trên broadwayworld và danh khoản Twitter Latina for Kamala cho thấy, vợ chồng cựu phó tổng thống đến thưởng lãm buổi nhạc kịch GYPSY của đạo diễn sáu lần đoạt giải Tony George C. Wolfe. Khi cả hai bước vào, khán giả đồng loạt đứng dậy vỗ tay và hô vang “Kamala” cho đến khi dàn nhạc bắt đầu chơi bản nhạc mở đầu của GYPSY. Cuối buổi biểu diễn, Harris và Emhoff đứng lên, gửi tràng pháo tay dài cho nghệ sĩ Audra McDonald và các bạn diễn. Chỉ vài ngày trước đó, bà Deborah Rutter, giám đốc của Trung Tâm Nghệ Thuật Biểu Diễn John F Kennedy – John F. Kennedy Center for the Performing Arts, thường được gọi là Kennedy Center, bị sa thải. Thay thế bà, không ai khác hơn chính là tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ, Donald Trump.
Khánh Ly khóc.Tôi bất ngờ. Mọi người chưa nghĩ ra. 300 cái đầu, 600 trăm con mắt, 600 trăm lỗ tai, 300 hơi thở đều im lặng. Một cảnh tượng hoàn toàn đồng cảm. Tâm trạng nặng nề trong bóng tối tràn ngập cả thính đường. Lúc đó, sân khấu kéo màn. Hậu cảnh sáng dần lên, thấy tấm hình lớn, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đang cầm cây đàn thùng, tay kia quàng qua mái tóc Khánh Ly. Nét mặt ông chìm đắm vào địa đàng âm nhạc và Khánh Ly trẻ như thời còn chân đất ở quán Tre.
Ngày 12 tháng 2 năm 2025, Tổng thống Donald Trump đã sa thải một nửa số thành viên được bổ nhiệm vào hội đồng quản trị của Trung Tâm về Nghệ Thuật Biểu Diễn John F. Kennedy (Kennedy Center for the Performing Arts, gọi tắt là Kennedy Center). Ngay sau đó, các thành viên còn lại, phần lớn là những người mà Trump vừa bổ nhiệm, đã bỏ phiếu để đưa ông lên làm chủ tịch của Kennedy Center. Hội đồng cũng đã bãi nhiệm Deborah Rutter, người từng giữ chức chủ tịch trung tâm từ năm 2014. Mặc dù Rutter vốn dĩ đã có kế hoạch rời đi sau bảy tháng nữa, nhưng hội đồng vẫn quyết định thay thế bà ngay lập tức bằng Richard Grenell, một cựu viên chức trong chính quyền Trump hồi nhiệm kỳ đầu.
Bùi Giáng sinh năm 1926 tại Quảng Nam, mất ngày 7/10/ 1998 tại bệnh viện Chợ Rẫy, Sài Gòn. Bùi Giáng là nhà nghiên cứu, khảo luận, dịch thuật và làm thơ. Ông thông thạo nhiều ngoại ngữ Anh, Pháp, Đức…, nghiên cứu những tư tưởng triết học của Jean Paul Sartre, Heidegger, Nietche, Albert Camus…, dịch nhiều tác phẩm nổi tiếng của các nhà văn trên thế giới Henry Miller, Simone de Beauvoire, St Exupéry, Sagan, khảo luận những tư tưởng triết học Đông Tây Kim Cổ… Ông xuất bản nhiều tác phẩm dịch thuật, nghiên cứu, phê bình, nổi tiếng các tập thơ Mưa Nguồn, Lá Hoa Cồn, Ngàn Thu Rớt Hột…
Lũ con cháu chúng tôi sang thăm cô Nhã chú Từ ở thành phố Malmo, miền Nam Thụy Điển, vào khoảng giữa tháng 10 2024. Có chúng tôi về, cô chú vui lắm và thường cùng chúng tôi ra ngoài dạo phố, ngắm cảnh, ăn uống. Trong một buổi chiều đi uống cà phê, chúng tôi chụp được tấm hình cô chú nắm tay nhau đi dạo trong một công viên thanh bình, khi trời đất vào thu, dưới ánh nắng nghiêng nghiêng của buổi hoàng hôn cuối ngày. Chúng tôi đặt tên tấm hình đó là “Vẫn nắng vàng dù buổi chiều của đời”, là câu đầu tiên trong bài hát Vầng Trăng Xưa, chú Từ sáng tác trong trại giam Hàm Tân vào năm 1985.
Bước vào phòng triển lãm, ba bức tranh đầu tiên bên tay phải đập vào mắt người thưởng ngoạn là ba tác phẩm của họa sĩ Ann Phong: “I Told You, The Earth Is Warming Up”; “Looking Back, Looking Forward”; “If We Don’t Care For Nature, It Will Disappear.” Chọn ba tác phẩm này cho cuộc triển lãm, họa sĩ giải thích: “Các tác phẩm nghệ thuật của tôi phản ánh mối quan hệ giữa người với người; trách nhiệm mà chúng ta phải có đối với trái đất nơi chúng ta đang sống. Thật đau lòng khi chứng kiến ​​thiên nhiên bị tàn phá bởi lòng tham và sự thiếu hiểu biết của con người. Có vẻ như khi chúng ta càng làm cho cuộc sống của mình trở nên tiện nghi, thì chúng ta càng tạo ra nhiều ô nhiễm hơn; càng làm cạn kiệt tài nguyên của trái đất một cách bất cẩn hơn…”
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.