Hôm nay,  

Nguyễn Đồng: Những Vệt Màu Còn Lại Của Một Thời Vàng Son

04/04/202500:00:00(Xem: 2793)

DN2
 
Sự ra đi lặng lẽ của họa sĩ Nguyễn Đồng là một một dư vang trầm mặc trong ký ức nghệ thuật Miền Nam – một miền nghệ thuật từng sống động, tự do, nơi mà hội họa được đặt ngang hàng với văn học, triết học, và cả chính trị. Ông không những là một trong những họa sĩ tiêu biểu của thời Đệ Nhị Cộng Hòa, mà còn là nhân chứng của một nền văn hóa từng rực rỡ trước khi bị chôn vùi dưới lớp bụi chiến tranh và chính trị hóa nghệ thuật.

Nguyễn Đồng – với ngôn ngữ tạo hình đầy bản sắc, vẽ nên những con người u uẩn, ánh sáng khúc xạ từ tâm tưởng – đã vượt qua cái đẹp đơn thuần. Tranh của ông không phải để ngắm, mà để chiêm nghiệm. Trong một thời kỳ hội họa Sài Gòn chưa bị thị trường điều tiết, ông là người vẽ vì niềm tin, vẽ như một chứng đạo, chứ không phải như một người làm nghề.

Từ sau biến cố 1975, ông lưu lạc sang Mỹ, tiếp tục sống bằng nghề cũ, nhưng không ồn ào, không phô trương, như chính cách ông rút lui khỏi sân khấu đời sống nghệ thuật ồn ã. Thế nhưng, sự vắng mặt của ông trong dòng chảy chính thức của cộng đồng không phải là dấu hiệu của lãng quên, mà là minh chứng cho một tình trạng đáng buồn: hội họa Việt Nam tại hải ngoại, đặc biệt tại Little Saigon, đã và đang bị bỏ quên, bên lề.

Hội Họa Tại Hải Ngoại – Tiếng Thở Dài Trong Căn Gác Tối

Không giống như văn học – vốn có một tầng lớp độc giả trung thành và còn hy vọng vài thế hệ cầm bút kế thừa – hội họa tại hải ngoại là một tiếng thở dài bị bóp nghẹt giữa đô thị hóa, kinh tế thị trường và sự lệch chuẩn thẩm mỹ của công chúng. Little Saigon là trung tâm văn hóa của người Việt lưu vong, nhưng không có lấy một bảo tàng nghệ thuật Việt, không có một không gian triển lãm phi thương mại chuyên nghiệp nào dành riêng cho hội họa.
Những gallery nếu có, phần lớn phục vụ cho nhu cầu... trang trí nội thất. Những tác phẩm được chọn treo thường phải “hợp mắt”, “dễ bán”, “đẹp kiểu tình cảm gia đình.” Hội họa phản kháng, hội họa biểu hiện, hội họa siêu thực, trừu tượng, những thể loại mang ngôn ngữ thẩm mỹ sâu sắc và mang tính triết lý – đều bị xếp vào hàng “khó hiểu”, “không bán được.”

Giới họa sĩ sống trong cảnh lặng lẽ, không báo chí chuyên ngành, không phê bình nghệ thuật, không sự hỗ trợ từ cộng đồng. Hội họa – vốn đã là một lĩnh vực đơn độc trong bất kỳ xã hội nào – ở hải ngoại/Little Saigon càng đơn độc hơn khi thiếu những “đối thoại thẩm mỹ.” Đó là chưa kể, nghệ sĩ thị giác thường không được mời gọi vào những sinh hoạt văn hóa lớn, vốn chỉ ưu tiên ca nhạc, văn học, hay diễn thuyết chính trị.


Khắc Nghiệt Hơn Văn Học – Vì Không Có Chữ Nghĩa Làm Gạch Nối

462950765_8586115874768347_385250546820878402_n
Văn học Việt hải ngoại còn có sách in, có báo chí văn nghệ, có các tổ chức như Văn Bút, có những diễn đàn như Văn Học, Khởi Hành, Hợp Lưu… (dù giờ đây đã ít nhiều tan biến), có những nhà văn có thể "viết về nhau." Hội họa thì khác. Họa sĩ Việt tại Mỹ sống như những nhà ẩn tu– vẽ trong tịch mịch, ít ai viết về mình, ít ai treo tranh họ. Và họ, cũng ít khi lên tiếng cho nhau.
Bấy giờ, không có một cộng đồng phê bình nghệ thuật nào có thể nâng họa sĩ ra khỏi sự cô đơn.

Nguyễn Đồng là một trong số ít họa sĩ được nhắc đến trong một vài bài viết hàn lâm hay hồi ký của các nhà văn cũ. Nhưng thế hệ họ đã gần như khép lại. Không ai còn viết tiếp những phác họa đời sống nghệ thuật lưu vong.

Giờ đây, khi ông ra đi, báo chí cộng đồng đưa tin như một "tin tức," nhưng không có phân tích, không có nhận định, không có "di cảo thị giác." Nếu một nhà văn mất đi, ít nhất còn lại những bài văn, hồi ký, những tập truyện in, những trích đoạn chia sẻ. Nhưng một họa sĩ mất đi – nếu không có ai giữ lại tranh ông, nếu không có một không gian lưu trữ tác phẩm – là cả một thế giới ngôn ngữ hình ảnh sụp đổ.

Hồi Sinh Một Di Sản, Hay Chấp Nhận Lạt Phai?

Câu hỏi đặt ra: phải chăng chúng ta – cộng đồng người Việt hải ngoại – đã mặc nhiên để mất đi một kho tàng nghệ thuật tạo hình mà lẽ ra phải được gìn giữ như một phần di sản? Việc này không riêng chỉ liên quan đến nghệ sĩ. Nó liên quan đến nhận thức cộng đồng về vai trò của nghệ thuật, của cái đẹp, của những gì không thể mua bán bằng tờ giấy in mực.

Nếu không có những trung tâm trưng bày – ít nhất cũng là một không gian độc lập, nhỏ thôi – thì tranh Nguyễn Đồng, và các họa sĩ như Đinh Cường, Khánh Trường, Hồ Thành Đức, Mai Chửng, hay Trịnh Cung, Nguyên Khai, cho đến thế hệ chị Ann Phong, anh Nguyễn Việt Hùng v.v.... sẽ biến mất dần khỏi ký ức công cộng. Nếu không có phê bình nghệ thuật – thì công chúng sẽ tiếp tục nhầm lẫn giữa một bức tranh in canvas số lượng lớn với một tác phẩm gốc mang tâm hồn của cả một đời người.

Little Saigon cần một cuộc phục sinh thị giác. Một không gian đối thoại nghệ thuật, vượt khỏi thẩm mỹ trang trí, vượt khỏi chủ nghĩa tiêu thụ. Sự ra đi của họa sĩ Nguyễn Đồng, cùng lúc Hồ Thành Đức có thể là hồi chuông sau cùng để chúng ta nhìn lại: nền hội họa lưu vong không mất vì thiếu tài năng, mà vì thiếu công chúng biết thưởng lãm và gìn giữ.

Chốn Bụi, 27 tháng Ba, 2025

Uyên Nguyên
  

Ý kiến bạn đọc
09/04/202505:49:56
Khách
Tin buồn nhưng phân tích có giá trị... Cũng là những tiếng kêu cứu não lòng về một bộ môn mà người thưởng ngoạn phải học hỏi nhiều và sở hữu tác phẩm thì phải tốn tiền...
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nói đến âm nhạc, người ta thường liên tưởng đến khái niệm về “tâm hồn” hay “cảm xúc”. Khi nói đến giáo dục lại thường liên kết với “trí tuệ”. Một bên là nghệ thuật, một bên là tri thức. Một bên là những chàng nghệ sĩ, một bên là những nhà mô phạm. Thực ra hai lĩnh vực này có nhiều khi đan lẫn, kết hợp với nhau. Âm nhạc là một ngành học với học vị lên tới tiến sĩ, không thua kém gì học bác sĩ, kỹ sư. Và khoa học đã chứng minh từ lâu rằng học âm nhạc góp phần phát triển khả năng trí tuệ toàn diện cho trẻ em.
Cuốn phim Từ Sài Gòn đến Điện biên Phủ cũng được ra mắt lần đầu tiên tại Hoa Kỳ. Phim do hãng Mỹ Vân hoàn tất tại Việt Nam trước 1975. Chưa từng chiếu được giữ lại trên 50 năm qua sẽ ra mắt đồng bào rất may mắn tại San Jose. Xin mời đến để gặp Kiều Chinh và Sài Gòn sau hơn nửa thế kỷ. Vào 1 giờ chiều thứ bẩy 27 tháng 7-2024 tại hội trường Santa Clara County
Vào chiều Chủ Nhật cuối Tháng Sáu, khoảng hơn 400 khán giả đã ngồi chật khán phòng của Huntington Beach Central Library Theater để cổ vũ cho các tài năng âm nhạc trẻ gốc Việt trong chương trình nhạc Emê Concert 2, chủ đề “I Wish It So”.
Thỉnh thoảng có một ngày vui. Gặp nhau trong thân tình, được bày lộ nỗi lòng, nâng ly rượu giao hòa. Đó là buổi ra mắt tập thơ của Họa sĩ Khánh Trường. Chiều, của một ngày cuối cùng tháng Sáu, 2024. Trời Nam Cali mát dịu. Tôi và Kim đến rất đúng giờ nhưng phòng họp đã đầy chật bằng hữu. Tấm lòng yêu mến Khánh Trường quả là rõ thực. Tay này đa tài trên khắp nẻo, hội họa, văn chương, báo chí, cả ngang tàng một cõi thời trai trẻ. Bỗng đủ thứ bệnh tật đến rần rần như rủ nhau đi xem hội. Trên hai mươi năm nay ung thư thanh quản, hộc máu, tắt tiếng, đột quỵ, ngồi xe lăn, bại thận, mỗi tuần bị lụi kim, kim bự tổ chảng, vào người thay máu hai lần. Nhìn hai cổ/ cánh tay của Khánh Trường, từng đụn da thịt gồ lên thấp xuống, như cái dãy… Trường sơn thu nhỏ.
Nhà thơ Đỗ Quý Toàn nói về Khánh Trường-nhà thơ đã không quên nhắc lại “Khánh Trường là người làm được rất nhiều thứ, không những ông là họa sĩ, nhà thơ, mà ông viết văn rất hay. Tôi rất thích đọc truyện Khánh Trường. Nhưng điều tôi phục nhất là Khánh Trường của Hợp Lưu. Khánh Trường của nguyên tắc làm theo ý mình, trái ý thiên hạ. Người ta cho là anh ta phản kháng hay nổi loạn, nhưng theo tôi, KT chỉ làm cái gì mình cho là đúng, hay, phải làm. Tôi rất khâm phục.”
Ca khúc “Nỗi buồn hoa phượng” là ca khúc thứ hai của nhạc sĩ Thanh Sơn, sau ca khúc “ Tình học sinh” ra đời năm 1962, song bị... chìm lĩm, chẳng một ai chú ý? Năm 1983, trả lời phỏng vấn của chương trình Paris By Night, nhạc sĩ Thanh Sơn kể về sự ra đời của ca khúc “Nỗi buồn hoa phượng”, sau 20 năm ra đời, đã được hàng triệu người kể cả miền Bắc sau này ưa thích. Đó là vào năm 1953, ông học chung lớp với người bạn nữ tên là “Nguyễn Thị Hoa Phượng”, hè năm ấy, người bạn gái cùng gia đình chuyển về Sài Gòn, ông có hỏi cô bạn: “Nếu nhớ nhau mình sẽ làm sao?”, cô bạn mĩm cười trả lời đại ý là “ Cứ mỗi năm đến hè, nhớ đến nhau, anh cứ nhìn hoa phượng nở cho đỡ nhớ bởi tên em là Hoa Phượng...”, và đó cũng là “đề tài” mà ông ấp ủ để 10 năm sau, khi đó cô bạn gái ngày xưa chắc đã... vu qui rồi?
Không thể chối cãi, trong đầm không gì đẹp bằng sen. Đúng hơn nữa, trong đầm không gì thơm hơn sen. Nhưng vì sao sen lại mọc trong đầm bùn? Vì sao sen không mọc sánh vai cùng Cẩm Chướng, Mẫu Đơn, Hồng Nhung, Anh Đào, Thiên Điểu, Oải Hương, Hướng Dương, vân vân trong những vườn quyền quý cao sang, những nơi chưng bày lộng lẫy? Vì sao sen lại chọn ngâm mình trong nước hôi tanh? Vì sao trong tất cả loại sen, tôi lại quý sen hồng, trong khi đa số yêu sen trắng? Sen và bùn là một lý thuyết chính trị cần thiết cho Việt Nam hiện nay. Hoa sen phải mọc từ bùn, trong bùn. Không thể mọc ở những nơi không có bùn. Vì sao hoa sạch thơm phải mọc và sống từ nơi dơ thúi? Rồi sen phải vượt lên khỏi mặt nước mới nở được hoa đẹp, hoa thơm, nhưng vẫn cần có bùn để tồn tại. Một quá trình hiện thực, một ẩn dụ để tư duy.
Bộ phim Face Off 7: One Wish như đem lại một tín hiệu tốt lành rằng trong một xã hội Việt Nam ngày nay đang có quá nhiều điều nhiễu nhương, những nét đẹp truyền thống của văn hóa Việt Nam vẫn còn có chỗ để tồn tại…
Hồi nhỏ, tôi thường nghe cha tôi đọc hai câu ca dao này: “Còn cha gót đỏ như son, đến khi cha chết gót con đen sì.” Lúc ấy tôi chừng năm bảy tuổi, nên nghe rồi thuộc lòng mà không hiểu hết ý nghĩa, chỉ biết hời hợt là nếu cha chết thì mình sẽ khổ lắm! Nhưng ngay cả khổ ra sao thì cũng chẳng hình dung được. Câu ca dao nói trên cho thấy truyền thống ngày xưa, người cha đóng vai trò then chốt trong gia đình. Ông vừa là trụ cột kinh tế để nuôi gia đình, vừa là tấm gương đức hạnh để cho con cái noi theo. Đặc biệt là với truyền thống phụ hệ con cái mang họ cha, nên việc “nối dõi tông đường” đặt lên vai người con trai, hay người đàn ông. Đó có thể là yếu tố cấu thành quan niệm “trọng nam khinh nữ” ngày xưa tại các nước theo phụ hệ như Việt Nam, Trung Hoa, v.v…
Tháng 3/2022, Bến Bạch Đằng Saigon bị đổi tên thành “Ga Tàu Thủy Bạch Đằng”. Sự kiện này đã dẫn đến những tranh luận trong dân gian chung quanh đề tài: Ngôn ngữ Hà Nội (ngôn ngữ miền Bắc) đang làm mờ dần sắc thái đặc biệt của ngôn ngữ miền Nam Việt Nam...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.