Hôm nay,  

Ngấn lệ mừng vui

11/04/202416:27:00(Xem: 2858)
mother-n-son

Tôi quen biết một cô Tây, gọi là một cô đầm thì đúng hơn, tên gọi đầy đủ là Florence Cavalier, vợ của ông tây Jean Paul Cavalier. Florence còn trẻ, lối 30 tuổi. Ngày từ khi còn nhỏ, 9 tuổi, Florence đã là một hướng đạo sinh, scout, lớn lên em học và hành nghề y tá. Cái gốc scout và nghề nghiệp y tá bổ túc lẫn cho nhau, thêm Flor có ngoại hình xinh xắn tươi vui, thành ra trông lúc nào cô ấy cũng tràn đầy nghị lực, sức sống và yêu đời.
    Flor kết hôn với Jean Paul trong mười năm, từ khi 23 tuổi cho tới năm 33 tuổi, cô vẫn không có con cái, dù cả hai đều có sức khỏe bình thường, khả quan. Jean Paul là một dược sĩ, làm việc trong một công ty bào chế thuốc tây. Y cũng xuất thân từ nhóm scout từ nhỏ cùng với Flor.
    Sau nhiều tháng ngày tìm tòi, thử thách rồi suy nghĩ, cả hai vợ chồng nhà Cavalier rủ nhau đi Việt Nam xin con nuôi. Tại sao không? Cả hai thỏa thuận, đồng ý và cười nói với nhau rất tâm đắc. Rồi một ngày nghỉ vacances dài năm ấy, Florence đi Việt Nam hai tuần lễ, cùng chồng đi tìm hiểu, quan sát các viện mồ côi, xem xét tập quán và thủ tục coi nơi nào tiện lợi và có thể xin được con. Florence cảm nhận là mỗi lần đi xa tham quan, thăm hỏi như vậy có vất vả, có nhiêu khê thiệt mà cứ coi như là mình phải đi chữa trị hiếm muộn và học mang thai. Cô nghĩ mình nên đi thật xa và mong có một dịp nào đó, hội đủ nhân duyên, sẽ trở về Paris, trên tay cô ẵm theo một bé sơ sinh về theo, như là cô đã sanh con ở một bảo sanh viện trời cho và bồng con về nhà mình.
    Đi và về nhiều lần, nhưng Florence không nản lòng, cứ nghĩ đến một ngày đẹp trời sẽ bồng con về nhà là hai vợ chồng trẻ lại hăng hái, đeo ba lô lên vai, năng nổ đi Việt Nam. Có những lần ở Việt Nam mới được có hai tuần lễ, Florence đã phải trở về Pháp vì những công việc bận rộn ở nhà thương. Jean Paul ở lại Sài Gòn một mình, tiến hành thủ tục nhận con nuôi ở một cô nhi viện. Jean Paul không quá tỉ mỉ như cô vợ, anh nói là khi anh chìa tay ra bồng, mà bé nào đồng ý cho anh ẵm thì đó là con anh. Jean Paul kể lại là cũng rất khó khăn vì các bà mẹ bề trên đòi hỏi có đủ các thứ giấy tờ chứng tỏ họ có thể nuôi nấng các trẻ chu đáo, kể cả giấy chủ quyền bất động sản và tài khoản ngân hàng riêng tư.
    Có lần, đi lung tung sao đó trên con đường nhỏ yên tịnh râm mát Tú Xương, vậy mà vừa đi qua nhà nguyện lối 500 thước, anh bị một tốp bốn cô gái lạ đón đường hỏi chuyện, ngôn ngữ bất đồng, xích mích, dằng co sao đó, anh bị chúng đánh, đấm, đá túi bụi  lột áo quần ngoài… Chạy, anh chạy thục mạng, chạy thoát với chỉ một bộ áo quần lót trên mình, đêm núp trong một bụi cây rậm, đợi sáng hôm sau mới chui ra để trở về nhà nguyện xin giúp đỡ.
    Sau tai nạn bất ngờ, Jean Paul được nhà nguyện đưa tới tòa đại sứ. Sau lần đó, một tháng sau, anh trở về Paris với thành công tốt đẹp là xin được hai bé gái bốn tháng tuổi song sanh mang về cho vợ. Florence mừng khôn xiết. Nuôi hai bé song sanh còn nhỏ, hai vợ chồng trẻ chưa quen cũng khá vất vả lúng túng đêm ngày, tới khi con bập bẹ, học nói, Jean Paul, dậy chúng, Marie và Lucie, gọi Flor là maman Florence, rồi mẹ nuôi chúng cũng rất cảm động dậy hai con nhỏ kêu bố là papa Jean Paul.
    Những tưởng có hai đứa con là đủ rồi, nhưng không, khi các con gái đã bắt đầu vào trường mẫu giáo, Flor lại lần mò kiếm cớ đi Việt Nam, cô nàng giảng giải cho các con là: maman phải đi xa, đi về quê hương thật xa để có thể sanh được em bé, em bé trai, gia đình mình sẽ một nhà đông vui, một famille nombreuse!
    Với tài tháo vát của một y tá, một hướng đạo sinh, một người mẹ đầy thiện tâm, cô ấy xin được hai đứa con trai sau đó. Cô ấy kể là đã bán đi tất cả nữ trang quý mà mẹ cha đã cho, cộng thêm tiền tích góp  của vợ chồng nhiều năm qua. Cô ấy mang theo một số tiền khá, bảo là bọc theo khi cần giải quyết mọi công việc cho mau chóng. Khi Flor trở về Pháp với hai con trai, một ba tuổi, một bốn tuổi. Cô ấy bị má chồng rầy la vì lúc này con trai bà cũng quá vất vả bận rộn với lũ nhỏ. Bà mẹ trách móc: « Sao con muốn mang cả cái viện mồ côi về đây hả? Cả nhà này xúm lại mà lo cho lũ trẻ cũng không nổi đâu. Rồi mọi người sẽ đau ốm vì cái việc đi xin con nuôi của con thôi! »
    Cả người mẹ ruột cũng rầy rà, xin một đứa là đủ, con xin nhiều quá rồi!
    Nhưng Flor không có thì giờ đâu mà lưu tâm với những lời khiển trách. Cô tối mặt, quay vòng vòng săn sóc các con. Cơm, soupe, tắm giặt suốt cả ngày, suốt cả tuần lễ. Nhứt  là hai đứa con trai mới về, chúng khóc quá và không chịu ăn đồ ăn tây. Chúng không ăn soupe khoai tây carotte, Jean Paul phải học nấu cơm bằng nồi cơm điện và xắt nhỏ từng con tôm rim, trộn vô cơm rưới maggy lên, nhưng chúng chỉ ăn khi nào thiệt đói, còn là cứ khóc và la lối, đòi về nhà. Flor có lúc đã ôm hai đứa mà khóc theo chúng, cho tới lúc cả ba mẹ con đều mệt lử và ngủ êm trên nệm vây tròn. Jean Paul thương vợ, luôn gọi vợ là thủ tướng, ma 1ère ministre! Florence yêu cầu điều gì, anh cũng làm theo, rồi có một lúc, anh bảo với các con: « Đây là nhà chúng ta, nhà chúng ta mà maman Florence đã làm ra ! » Nhưng hình như anh nói vậy chỉ để cho anh nghe, bầy trẻ vẫn còn khóc rỉ rả.
    Cả hai quá vất vả với bốn đứa con đến gần nhau và tuổi cũng san sát gần bằng nhau. Có lần người mẹ trẻ Flor đang làm bếp thì nghe ồn ào ở phòng khách, nàng chạy ra tiếp cứu, hỡi ôi, hai đứa con gái đang đuổi đánh hai thằng con trai. Lại phải nhiều màn can gián và giải thích ỉ ôi. Phong ba, bão táp, giông tố, sừng sộ, rồi cũng êm lần, giảm nhẹ với thời gian. Nhưng sức người có hạn, có những tháng ngày Flor bị cảm, ho mệt lừ đừ, đi lảo đảo, đứng ngồi loạng choạng, mẹ ruột cô càu nhàu: « Khi con làm gì con phải lượng sức mình, khi mình làm không nổi thì chừa lại phần nào cho người khác làm, có thể người ta làm vừa sức, kết quả tốt hơn con. » Flor lặng lẽ uống nước, cúi đầu, không phản kháng. Sau đó, Flor được má cô mướn cho một người giúp việc, nhưng một tháng sau cô ấy xin cho chị người làm đi giữ caisse ở một siêu thị gần nhà. Florence tự xin nghỉ làm việc không lương 2 năm để nuôi con. Lâu lâu, Flor điện thoại nhờ cô caissière đã quen mua giùm cho một xe đồ ăn, đồ gia dụng cần thiết để khỏi đi chợ.
    Cũng với 4 đứa con, Flor xin được trợ cấp gia đình đông con, còn một lương chồng, nàng sống tiện tặn, không xa hoa, cũng đủ cho sáu người tạm ổn. Dù có khéo thu vén tới đâu, dù cố gắng đến mấy đi nữa, thì qua một mùa đông quá lạnh lẽo, Florence cũng ngã bệnh nặng, nằm vùi cả ngày. Khi có thể vực dậy, cô nàng tự chữa bệnh lấy, bảo là mình chỉ bị suy nhược và trúng cảm lạnh, không đáng quan tâm.
    Cô ấy vẫn trở dậy buổi sáng, đi lại, làm việc trong nhà như nấu ăn, xếp dọn quần áo, lo bữa ăn sáng và chuẩn bị các giỏ sách, giầy dép, nón, áo để chồng đưa các con đi học. Xong lại chóng mặt và đi nằm nghỉ. Flor ăn không mấy ngon và có vẻ mòn mỏi trong suốt thời gian dài cả năm trời như một người bệnh tương tư vô duyên cớ.
    Rồi tới một ngày, thượng đế trả công, một mùa Noël rộn rã đến. Lúc này cô đã gần 40 tuổi. Một ngày, vừa thấy ngon miệng, đi nấu bát soupe asperge, ăn ngon lành, nhưng ăn xong, đi rửa chén bát, Florence thấy lợn cợn trong cổ rồi nôn ói ra hết đồ ăn. Tự nhiên, Flor có linh cảm là mình có sự thay đổi trong cơ thể, hình như là nàng nghĩ mình sẽ có bébé, trời cho, cấn thai.
    Những ngày tiếp theo, Flor lấy hẹn đi khám bác sĩ sản khoa, người mà đã mười mấy năm qua không một lần nghĩ tới! Vị bác sĩ cũng nghĩ là cơ thể của Florence có một sự thay đổi và giới thiệu cô vào bệnh viện chuyên môn. Nơi đây, người chuyên ngành làm xét nghiệm nhiều lần và xác định là cô có thai. Họ giải thích là khi còn trẻ, có thể cô không có đủ kích thích tố, hormone cần thiết, để có thai nhi, vì một lý do nào đó, hoặc do di truyền gia đình, hoặc do đồ ăn uống cách sống cơ thể mà tự nhiên không có con. Đến nay tuổi khá lớn, đầy đủ hormone, nhờ tự nhiên của cơ thể, nhờ sự tiếp cận huyền diệu do chăm sóc con trẻ mà có, nhờ những xúc cảm chân thành trong tâm sinh lý « mẹ-con » được tự tạo, tất cả hồi sinh. Florence đã mang thai đứa con đầu lòng của chính cô và chồng. Khi nghe bệnh viện sản khoa tuyên bố điều kỳ diệu đó, Florence đã bật khóc và nói  lên lời: « Không, không phải đây là lần đầu tiên, mà đây là đứa con thứ năm của tôi! »
    Florence và chồng báo tin cho mẹ cha cả hai bên nội ngoại rồi thì chỉ chưa tới một năm sau, cô ấy đã sanh ra một bé gái kháu khỉnh đặt tên là Anne, bên cạnh một cái tên Việt Nam như các anh chị nó, là An Cavalier.
    Florence đeo bé An hơi cao trong một cái đẫy phía trước ngực, vòng hai tay ôm luôn bốn đứa con lớn vào lòng, đứng bên chồng. Họ cùng sung sướng hạnh phúc bên nhau, cùng dắt díu nhau mang bảng đá « xin tạ ơn » vào nhà thờ mà mère Miraculeuse ở rue Boileau, Paris 6ème mấy đứa trẻ đã lớn lên thấy rõ, chúng vui sướng chạy qua chạy lại trong khuôn viên nhà nguyện. Đó đây hoa lilas nhiều màu, hoa hồng, hoa huệ theo gió đưa hương, mùi thơm thoang thoảng như bay xa.
    Trên bệ đá uy nghi, nến vẫn cháy và vẫn chẩy, từng ngọn nến xếp hàng, từng hàng vẫn sáng rỡ long lanh! Trên kia, cao hơn, tượng đức mẹ chan hòa ân sủng, dường như còn đọng hơi sương long lanh ngấn lệ, ngấn lệ mừng vui và ánh sáng của cứu rỗi, của đức tin.
 

– Chúc Thanh

Paris, mùa phục sinh 2024

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có lẽ ngày xưa các bậc sinh thành nên đặt tên tôi là Măng mới hợp với lẽ trời. Tôi khoái măng một cách kỳ lạ trong khi thằng con trai tôi lại ghét thậm tệ. Không biết có phải loại hình cha ăn mặn con khát nước không. Măng làm cách chi tôi cũng thích dù chỉ là thứ măng ngâm trong hũ bán đầy chợ. Nhưng món tôi hẩu nhất là món bún măng vịt. Nghe nhà hàng nào có bún măng vịt là tôi tìm tới, như tìm tới nhà người thương. Bún măng vịt với đĩa gỏi thịt vịt nằm xếp lớp trên lớp rau bên cạnh chén nước mắm gừng trông cứ như là Bá Nha của đôi mắt Tử Kỳ là tôi.
Hãy thử kiểm tra lại ký ức của bạn xem. Trong bộ phim kinh điển The Empire Strikes Back, Darth Vader đã nói gì với Luke Skywalker? Bộ sách thiếu nhi về gia đình nhà gấu có tựa đề là Berenstain Bears hay Berenstein Bears? Và trên logo của thương hiệu phô mai Con Bò Cười, liệu con bò có đeo khuyên mũi? Nếu câu trả lời của bạn là “Luke, ta là cha của con,” “Berenstein,” và “Có,” thì xin chia buồn, ký ức đã đánh lừa bạn. Darth Vader thực chất chưa bao giờ nói câu đó; tên của gia đình gấu luôn được viết là “Berenstain”; và con bò trên logo phô mai nổi tiếng chưa từng đeo khuyên mũi.
Giữa lúc tỷ lệ sinh sản (birth rates) tại Hoa Kỳ và nhiều quốc gia trên thế giới liên tục sụt giảm, từ giới công nghệ ở Thung lũng Silicon đến các viên chức tại Tòa Bạch Ốc đều đồng loạt lên tiếng cảnh báo rằng dân số giảm nhanh có thể gây ra những tác động nghiêm trọng cho nền kinh tế. Chính quyền Trump từng tuyên bố đang tìm kiếm các biện pháp để khuyến khích người dân sinh con đẻ cái, nhất là khi tổng sinh suất (Total Fertility Rate, TFR) hiện đã giảm tới 25% so với năm 2007 – xuống mức thấp nhất lịch sử. Tuy nhiên, theo các nhà nhân khẩu học chuyên nghiên cứu về sinh sản, đời sống gia đình và khuynh hướng sinh con: dân số sẽ không giảm ngay, cũng không phải chắc chắn sẽ giảm, và nếu có thì cũng không phải là điều bi đát.
Trong một lần tới thăm Hải Học Viện Nha Trang cách đây khoảng vài chục năm, tôi đã thấy một cặp sam sống trong một lồng kính. Phải thú nhận là tôi rất ngạc nhiên. Chúng dính vào nhau, một con trên một con dưới. “Dính như sam” thì tôi thuộc nằm lòng nhưng không ngờ chúng dính cứng như vậy. Dò hỏi nhân viên của Viện, tôi được cho biết hai con dính vào nhau như vậy suốt ngày đêm. Con đực kính thước chỉ nhỏ bằng nửa con cái luôn nằm dính trên lưng con cái. Cứ như mẹ cõng con đi chơi. Thân nam nhi mà coi bộ lép vế. Đeo dính sát sạt như vậy ngày đêm thì teo tắt là cái chắc. Vết đôi chân con đực bám vào hằn rõ trên mai con cái. Cùng sống chết với nhau như vậy nên ngư dân thường bắt được cả cặp. Nếu chỉ bắt được một con, gọi là sam độc, họ thả trở lại biển. Chẳng phải nhân nghĩa chi nhưng vì họ không bán được cho người ta làm thịt. Thực khách luôn mua làm thịt cả cặp, ăn một con họ tin rằng sẽ bị độc. Vậy sam sống cùng sống, chết cùng chết, lúc nào cũng dính nhau. Như…sam!
Tôi có một người bạn viết lách văn nghệ. Chị cho rằng mình có chút tài nghệ, đủ để khi cần móc túi lấy ra xài. Chị không viết đều. Chỉ viết khi thích – đôi khi chị viết gửi vài tạp chí mạng, có khi chỉ viết để đó, không gửi ai. Chị sống trên căn gác nhỏ, gọi đó là "giang sơn sáng tác" của riêng mình. Mỗi ngày chị dậy lúc gần trưa, pha ly cà phê nguội, rồi mở máy tính. Có bài chị viết ngay sau ngụm cà-phê đầu tiên – vài chục phút là xong – gửi đi ngay rồi gập máy, đi ngủ tiếp. Có bài để ba năm hôm, không sửa gì cả, gửi đi như vậy. Tôi hỏi: “Sao không đọc lại?” Chị nhún vai: Lúc viết là thật nhất. Sửa nhiều, mất hồn. Tôi hỏi tiếp: Không sợ thiếu sót? Chị cười, lấy ngón tay chỉ lên bức thư pháp trên tường:“Tri túc giả phú” (Biết đủ là đủ).
Trong tác phẩm Giông Tố của Vũ Trọng Phụng ấn hành năm 1936. Nhân vật chính trong tác phẩm nầy Nghị Hách, đại tư sản giàu có. “Năm trăm mẫu đồn điền trong tỉnh nhà, có mỏ than ở Quảng Yên, ba chục nóc nhà Tây ở Hà Nội, bốn chục nóc nữa ở Hải Phòng. Cái ấp của hắn đồ sộ nhất tỉnh, đến dinh quan công sứ cũng không bằng” (Giông Tố). Trên đường đến làng quê thăm ruộng lúa, trong lúc chờ người sửa chữa cái xe bị hỏng, hắn nhìn thấy cô gái quê xinh đẹp tên Thị Mịch... Thèm nhỏ dãi nên làm ra chuyện “ép liễu nài hoa”!
Quê nội tôi nằm bên cạnh sông Thu Bồn, dòng họ Tộc Trần có 5 phái nên con cháu rất đông, ở dọc theo tả và hữu ngạn sông Thu Bồn, từ Quốc Lộ I, cầu Cao Lâu chạy dài theo hướng Đông xuống các làng ở phía Nam thành phố Hội An. Tên gọi xã Điện Phương hiện nay qua những lần thay đổi thuộc quận Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Ranh giới xã Điện Phương ở phía Tây thành phố Hội An, phía Bắc giáp Tỉnh Lộ 608 (Vĩnh Điện - Hội An), phía Đông của Quốc Lộ 1 (cạnh cầu Cao Lâu) và phía Nam giáp sông Thu Bồn). Điện Phương vẫn giữ tên các làng cũ như Thanh Chiêm, Phước Kiều, Phú Chiêm, Kim Bồng (thời gian thuộc xã Cẩm Kim)... Theo dòng lịch sử thì những làng nầy được hình thành mấy trăm năm về trước thời Nguyễn Hoàng, trong đó có di dân từ Thanh Hóa. Vài làng nơi nầy nổi tiếng nghề đúc đồng từ thời vua Tự Đức. Nghề bánh tráng và mì Quảng nổi tiếng từ xa xưa…
Hầu hết các nước trên thế giới đều sử dụng tiếng lóng ra đời từ rất lâu, thường được lưu truyền trong dân gian. Đó là khẩu ngữ, phương ngữ trong cách giao tiếp bằng loại ngôn ngữ riêng được áp dụng trong nhóm người, địa phương và cả trong cộng đồng… Các loại tiếng lóng thường được lưu truyền thời gian trong xã hội. Xấu hay tốt còn tùy thuộc vào đối tượng sử dụng với nội dung, ý nghĩa muốn truyền đạt là gì. Trong sinh hoạt cuộc sống, mỗi nhóm vay mượn có tiếng lóng riêng giao tiếp hằng ngày…
Một anh bạn học cũ, gốc dân Quảng Ngãi (*), mới lãnh lương dạy kèm mấy giờ Anh ngữ, có nhã ý mời tôi đi ăn một món đặc sản quê anh. Ngại cho túi tiền eo hẹp của bạn, tôi từ chối thì anh nói ngay “Rẻ thôi mà!”. Cái quán xập xệ nằm ở đầu đường Bình Giả, Tân Bình. Chị chủ quán có vẻ trầm lặng, khép kín, không đon đả chuyện trò với khách, nhưng quán của chị khá gây ấn tượng là mấy chữ “Don Quảng Ngãi” được ghi dõng dạc, to nét trên tấm bảng lớn treo trước quán. Rồi hầu như để cho đồng bộ, bên trong quán lại có thêm hai cái bảng khác quảng cáo “Bia Dung Quất – Bia Quảng”. Và, rõ ràng là khiêm tốn hơn, một tấm bảng khác nữa ghi mấy chữ “Cháo gà, vịt – Tiết canh – Hủ tíu”, nét nhỏ hơn nhiều so với chữ “Don Quảng Ngãi”
Trước đây tôi đã viết bài phiếm Cao Nhơn, Nhơn Trị từ thành ngữ “Cao nhân tất hữu cao nhân trị” ghi vài nhân vật ngày xưa kiến thức rộng, giỏi văn chương nên tự phụ “mục hạ vô nhân” nhưng người xưa cho rằng “Nhất sơn hoàn hữu nhất sơn cao” (Núi cao còn có núi cao hơn) để nói về con người suy ngẫm. Vì vậy chuyện “sửa lưng” nói nôm na nhẹ nhàng hơn “phản pháo, đá giò lái” giữa hai nhân vật qua lời nói hay hành động. Người xưa sửa lưng không những chỉ người có quyền thế sửa lưng người thất thế mà ngược lại…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.